Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5. Hư Không, Hữu Hạn và Vô Hạn (tt)

06/10/201319:01(Xem: 4599)
5. Hư Không, Hữu Hạn và Vô Hạn (tt)
hoa_sen (23)

Khoa Học Phương Tây và Triết Học Phương Đông
Bài 5: Hư Không, Hữu Hạn và Vô Hạn (tiếp theo)
Kiều Tiến Dũng



Biết được cái không là nhận thức được chân không. Từ chân không hiện bày ra cái gọi là có. Đây không những là chân lý Dịch, Phật, Lão mà cũng chính là cái chân không của vật lý hiện đại.

**
Ở phần nhỏ nhất, cấu trúc của vật chất là các hạt cơ bản được chia thành hai nhóm gồm có nhóm hạt điện tử và các hạt cùng loại gọi là leptons, và nhóm các hạt gọi là quarks. Nhóm leptons thì ta có thể khảo sát trực tiếp được. Nhóm quarks tuy không tồn tại độc lập nhưng lại là cấu trúc của protons (dương tử) và neutrons (trung hòa tử). Protons và neutrons nằm trong hạt nhân và electrons bao ngoài tạo thành các nguyên tử. Nguyên tử kết hợp lại để cho ta phân tử.

Ngoài ra còn có các hạt điều chế sự tương tác giữa hai nhóm trên. Thí dụ như hạt ánh sáng gọi là photons chính là hạt điều chế sự tương tác qua lực điện từ; gravitons qua sức hút trọng lực, v.v.

Khi quarks mới được đề nghị thì có người chế diễu cho đấy là láo khoét, chẳng khác gì tiếng kêu quác, quác của mấy con vịt. Từ đấy cái tên quarks đã được chính thức hóa!

Nhưng còn lạ lùng hơn quarks là sự hiện hữu của phản vật chất. Phản vật chất đã được tiên đoán trước hết từ một phương trình toán học, rồi sau đó mới được xác nhận qua thực nghiệm. Phải nói đây là một trong những thành công kỳ diệu của ngôn ngữ toán, qua cái thiên tài của Paul Dirac, nhà vật lý người Anh. Vào năm 1928, Dirac đã tổng hợp cơ lượng tử và thuyết tương đối hẹp trong một phương trình mang tên mình. Nhưng khi giải phương trình đó thì ngoài cái nghiệm số bình thường lại còn có thêm một nghiệm số nghịch lý. Cái thiên tài và cũng là sự liều lĩnh của Dirac là ở chổ ông dám gán cho nghiệm số nghịch lý này ý nghĩa của cái gọi là phản vật chất. Nếu âm điện tử (electrons) là vật chất bình thường thì phản vật chất của nó được gọi là dương điện tử (positrons). Positrons giống như âm điện tử ở mọi mặt, chỉ khác chổ điện tích của nó lại là dương thay vì âm.

Năm năm sau đó, người ta mới tìm được dương điện tử và trao giải Nobel cho Dirac. Lúc đầu ông có ý định từ chối vì ông là người rất trầm lặng không thích đám đông; nhưng có người bạn vạch ra rằng nếu ông từ chối thì chỉ làm ông nổi tiếng thêm mà thôi, và lúc ấy sẽ luôn bị đám đông quây quanh. Vì thế ông mới miễn cưỡng nhận giải Nobel Vật lý, ở cái tuổi 31.

Sau này chúng ta biết là không chỉ electrons, mà nhiều hạt khác cũng có phản hạt của mình, protons và phản protons, quarks và phản quarks, hay nói rộng ra vật chất (matter) và phản vật chất (antimatter). Chỉ trừ những hạt như hạt photons thì phản hạt cũng chính là nó. Trong phòng thí nghiệm người ta cũng đã thành công trong việc chế tạo các phản nguyên tử, với phản protons trong hạt nhân và dương điện tử bên ngoài.

Khi gặp nhau vật chất và phản vật chất sẽ triệt tiêu lẫn nhau hòan toàn, tạo ra một năng lượng lớn theo phương trình E=mc^2. Năng lượng này lớn hơn rất nhiều so với các phản ứng hạt nhân, nên hiện nay người ta cũng đang ra công nghiên cứu dùng phản vật chất để làm bom, hay dùng nó làm nhiên liệu cho các động cơ của phi thuyền liên hành tinh.

Tuy vậy, “Tại sao thế giới này lại có rất ít phản vật chất hơn là vật chất?” vẫn là câu hỏi chưa có câu trả lời. Nhưng trong cái gọi là chân không thì lại “đầy rẫy” vật chất và phản vật chất!


**
Con số không, zero tuy sinh sau đẻ muộn trong toán học nhưng là một con số lý thú. Phép chia cho zero gắn liền với khái niệm vô cực như đã trình bày trong kỳ trước.

Nhưng chính cho phép nhân cho zero cũng đã ẩn chứa cái sức chứa vô hạn của nó, của cái gọi là hư vô. Lấy bất cứ con số hữu hạn nào đem nhân cho zero thì sẽ bị zero “nuốt chửng.” Đó cũng chính cái sức chứa của cái gọi là chân không (vaccum) trong Thuyết Trường Lượng Tử của vật lý hiện đại.

**
Trong khoa học lúc ban đầu chân không (vacuum) được dành cho cái trạng thái không có gì hết, thí dụ như cái chân không trong những bóng đèn vacuum tubes dùng trong radio trước khi có transitors. Nhưng thuyết trường lượng tử, sự tổng hợp của cơ lượng tử và thuyết tương đối hẹp, đã đảo lộn cái khái niệm về chân không –tưởng chừng như là không có gì nhưng lại là tất cả.

Chân không được định nghĩa là trạng thái năng lượng thấp nhất của vũ trụ. Điều vô cùng ngạc nhiên là các phương trình toán của thuyết lượng tử cho rằng cái năng lượng thấp nhất đó lại là vô hạn! Vâng, năng lượng thấp nhất của vũ trụ lại là vô hạn! Infinity!

Vật chất, mặt khác, luôn ở trạng thái năng lượng cao hơn năng lượng chân không. Nhưng năng lượng cao hơn cái năng lượng vô hạn của chân không là cái gì? Phải chăng đó cũng là một loại vô hạn? Thế thì tại sao năng lượng và khối lượng mà ta đo được ở vật chất lại là hữu hạn?

Thuyết trường lượng tử lại là thuyết khoa học thành công nhất từ trước đến nay trong lịch sử khoa học. Các tiên đoán của nó đã được kiểm chứng với độ chính xác 1 phần trong một tỷ phần. Để đi đến những kết quả này các nhà vật lý tiên phong đã giải thích là cái ta thấy được ở vật chất chỉ là một phần hữu hạn của cái bản thể vô hạn của sự vật – cái hữu hạn như những đợt sóng bề nỗi của một đại dương vô hạn.

Cái hữu hạn mà ta thấy được là sự sai biệt giữa hai cái vô hạn, một là cái vô hạn của sự vật, còn cái vô hạn kia là cái vô hạn của điểm tham chiếu, tức là của chân không. Lấy một vô hạn trừ đi một cái vô hạn của điểm tham chiếu để có được một con số hữu hạn. Và rồi con số hữu hạn này lại được kiểm chứng chính xác bằng thí nghiệm. Cái phép toán vô hạn trừ vô hạn này được gọi là phép “tái bình thường hóa” (renormalisation).

Đó là cái thành công vượt bực của thuyết trường lượng tử. Đồng thời đấy cũng lại là cái bí ẩn, chưa thể giải thích thỏa đáng được.

**
Năng lượng được bảo tồn nói chung trong một khoản thời gian dài, như đã có đề cập trong một bài trước đây. Nhưng trong những khỏang khắc rất ngắn, ta có thể vay mượn năng lượng từ con số không. Và dĩ nhiên sau đó phải trả lại năng lượng này về con số không. Năng lượng càng lớn thì thời gian vay mượn càng ngắn; và ngược lại, thời gian càng dài thì năng lượng vay mượn được càng ít đi, cho đến khi năng lượng vay mượn được không còn là đáng kể nữa. Lúc ấy, ta lại có lại định luật bảo toàn năng lượng.

Khả năng vay mượn năng lượng như thế đã được nêu ra trong “nguyên lý bất định năng lượng và thời gian” (energy-time uncertainty principle) của Heisenberg, nhà vật lý người Đức được giao trọng trách nhưng đã cố tình trì hoãn việc chế bom nguyên tử cho Đức Quốc Xã.

Với khả năng vay mượn này, trong một khoảng thời gian rất ngắn một năng lượng đủ lớn sẽ được vay mượn trong chân không để tạo ra một cặp vật chất và phản vật chất. Các hạt được tạo ra như thế được gọi là các “ảo hạt” (virtual particles). Sau đó cặp ảo hạt này sẽ tự tiêu hủy lẫn nhau để hoàn trả món nợ năng lượng. Đây là bản thể biến chuyển không ngừng của cái gọi là chân không!

**
Vật chất cũng vậy. Một hạt điện tử không phải luôn là “bất động.” Nó không ngừng bị chi phối bởi cái chân không chung quanh nó. Và tự nó cũng luôn biến chuyển. Trong những khoảng khắc ngắn ngũi, âm điện tử có thể tách ra một photon; nhưng nhanh chóng photon này lại kết hợp lại với cái âm điện tử ban đầu. Hoặc ảo hạt photon sẽ tạo ra thêm một cặp ảo hạt khác; cặp ảo hạt mới này lại nhanh chóng trả lại photon ảo hạt trước đó. Để rồi cuối cùng photon ảo hạt này kết hợp trở lại âm điện tử ban đầu. Ảo hạt cứ thiên biến, vạn biến trong một vật thể “thật hạt” ta gọi là âm điện tử.

Đó là chân bản chất của mọi sự vật.


**
Trên đây là cái nhìn của vật lý hiện đại về cái chân không thật sự, về cái vô hạn trong cái hữu hạn, về cái bản chất biến chuyển không ngừng của vạn vật. 

Vật lý cổ điển cho rằng mọi vật sẽ ù lì không thay đổi trừ phi có một lực tác động từ bên ngoài. Cơ Lượng Tử ngày nay, ngược lại, lại cho rằng ngay trong bản chất của vạn vật đã hàm chứa sẵn cái khả năng tự biến chuyển và luôn chuyển biến. Có được kết luận này là vì cái mức năng lượng thấp nhất của các hệ vật chất lại có cái giá trị khác zero. Và năng lượng khác zero là gì nếu không phải là khả năng biến hóa?

Kết luận này hình như lại trùng hợp với cái nhìn của Dịch, Phật và Đạo về bản chất vô thường tự có của vạn hữu, và của ngay cả cái gọi là hư vô.

**
Theo Kinh Dịch, vô cực là hư vô, và cũng chính lại là thái cực, cái cực vô hạn. Và chúng cũng là nguồn gốc của vạn hữu, của muôn vật:

Vô Cực sinh Thái Cực
Thái Cực sinh Lưỡng Nghi
Lưỡng Nghi sinh Tứ tượng
Tứ Tượng sinh Bát Quái
Bát Quái biến hóa ra vô cùng

Từ Không thành Có
Từ Có sanh Âm Dương
Âm Dương sanh Bốn Hướng
Bốn Hướng Sanh Tám Phương
Tám Phương biến hóa vô tận

Vạn vật luân lưu trên giòng biến thiên, chuyển vận không ngừng. Hơn thế nữa, cái chuyển vận đó không phải là lung tung, vô chiều hướng, mà chính là để phục hồi nguyên bản. Dịch Kinh viết: “Nguyên thủy phản chung,” nguyên thủy sẽ trở thành cùng đích là vì vậy. Nhận xét này không thể nào không đem đi so sánh với cái biến chuyển của chân không hay của các hạt cơ bản trong vật lý. Tự nó, các biến chuyển này sẽ đưa chân không về chân không, hạt điện tử về hạt điện tử như đã trình bày trên đây.

**
Đạo Đức Kinh lại cũng có những câu:

“Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị,
Nhị sinh Tam,Tam sinh vạn vật.
Vạn vật phụ âm nhi bão dương,
Trùng khí dĩ vi hòa”

Đạo sinh Một, Một sinh Hai,
Hai sinh Ba, Ba sinh vạn vật.
Trong vạn vật không vật nào mà không cõng âm, bồng dương
Âm dương được điều hòa bằng một loại khí trùng ngưng
(Nguyễn Duy Cần)

Phải chăng Lão Tử đã nhắn gởi cái Đạo cũng là cái tương đương của trường chân không trong vật lý? “Vạn vật sinh ư hữu, Hữu sinh ư Vô,” — vạn vật sinh từ có, có sinh từ không. Tuy “Không” mà lại vô cùng:

“Đạo xung nhi dụng chi hoặc bất doanh
Uyên hề tự vạn vật chi tòng”

Đạo thì trống không, nhưng đổ vô mãi cũng không đầy
Đạo như vực thẳm, dường như là tổ tông của vạn vật
(Nguyễn Duy Cần)

**
Kinh phật cũng chia xẻ cùng quan điểm dẫu có vũ trụ, hay không có vũ trụ, Vô Cực cũng không thể nào tăng giảm được gì, vì nó là Vô Hạn. Mà khi đã có vũ trụ vạn vật rồi, những hình hài, sắc tướng cũng không tách rời khỏi Vô Cực được. Thành thử Vô Hạn, Vô Cực, vừa ở trong, vừa ở ngoài Hữu Hạn. Vô Hạn y như là một trùng dương, mà Hữu Hạn như là những làn sóng nhấp nhô, trên mặt. Cái trùng dương của năng lượng vô cùng (infinity), và cái hữu hạn trong phép trừ giữa hai số vô cùng trong giải pháp renormalisation của vật lý.

Vạn vật do duyên hợp, hội đủ duyên thì hợp lại nhưng bản chất luôn lại là không, là vô ngã. Và cũng lại là tạm bợ nên gọi là huyễn, là vô thường, sẽ rã tan trở thành không trở lại. Có phải đây cũng bao gồm luôn cả sự vay mượn năng lượng trong một khoảng thời gian ngắn theo nguyên lý bất định năng lượng và thời gian của Heisenberg?

**
Bát Nhã Tâm Kinh nói về cái không một cách ngắn gọn nhưng súc tích:

“Không bất dị sắc, sắc bất dị không, không tức thị sắc, sắc tức thị không. Thọ, tưởng, hành, thức, diệt phục như thị.”

Cái không không khác cái có, cái có không khác cái không; cái không tức là cái có, cái có tức là cái không; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Ấy là, “Không bất dị thọ, thọ bất dị không, không tức thị thọ, thọ tức thị không,” v.v.

Đấy là cái trung đạo của nhà phật.

Xin nhắc lại nhà phật chia thân này làm năm nhóm: nhóm hình tướng gọi là sắc uẩn, nhóm cảm thọ gọi là thọ uẩn, nhóm tưởng tượng gọi là tưởng uẩn, nhóm suy tư gọi là hành uẩn, và nhóm phân biệt gọi là thức uẩn.

**
Ngộ cái không là nhận thức được chân không. Từ cái chân không hiện bày ra diệu hữu, sinh ra mọi cái có một cách khôn lường.

Hư vô thì vô ngã nhưng cũng lại là vô thường. Vạn hữu đến từ hư vô nên cũng vô ngã, vô thường. Tuyệt đối chăng là cái thường cữu của cái chân không đại ngã.

**
Chuyện kể trong Kinh A Hàm, có người tu sĩ Bà La Môn đến hỏi Thích Ca: “Ngài biết mọi sự đều là huyễn, vậy ngài có phải là huyễn không?”
Thích Ca hỏi lại: “Ông có nghe nói nước Bạt Kỳ có kỷ luật nghiêm khắc không?” 
Trả lời:“Có.”
Thích Ca hỏi tiếp:“Ông có biết những người vi phạm kỷ luật sẽ bị nhốt tù hay không?”
Tu sĩ Bà La Môn đáp:“Biết, tôi biết rõ lắm.”
Thích Ca lại hỏi tiếp:“Vậy ông biết rồi, nhưng ông có phải là người tù hay không?”

Biết người vi phạm kỷ luật ở tù, nhưng mình đâu phải kẻ ở tù. Biết vạn vật là như huyễn, biết tánh các pháp là không, nhưng mình đâu hẳn là không. Vì thế tại sao mình lại cứ tình nguyện đi làm người tù cho cái “không/có” trong cõi vô minh?

**
Đâu là không, đâu là có?

Vào đời nhà Đường bên Trung Hoa có vị cư sĩ đến hỏi đạo với thiền sư Quốc Nhất, là vị cao tăng được vua Đường phong tặng là bậc nhất trong nước. Cư sĩ hỏi ngài có thiên đường không thì ngài đáp là không; có địa ngục không thì ngài cũng đáp là không. Hỏi điều gì thì Quốc Nhất đều trả lời là không. Sau đó vị cư sĩ này đến hỏi thiền sư Trí Tạng. Cư sĩ hỏi ngài có thiên đường không thì ngài đáp là có; có địa ngục không thì ngài cũng đáp là có. Hỏi điều gì thì Trí Tạng đều trả lời là có.

Vị cư sĩ ngạc nhiên hỏi: “Tại sao hòa thượng lại nói vậy?”

Trí Tạng hỏi ngược lại:“Trước khi đến đây ông đã từng đi những nơi nào?”

“Tôi đã từng đến hòa thượng Quốc Nhất. Tôi hỏi gì thì ngài ấy cũng đáp là không. Nhưng tại sao tôi hỏi gì thì hòa thượng nay lại đáp là có?”

“Hòa Thượng Quốc Nhất có vợ hay không?”

“Dĩ nhiên là không.”

“Còn ông có vợ hay không?”

“Dạ có.”

Trí Tạng liền giải thích:“Vì hòa thượng Quốc Nhất không có vợ nên nói cái gì cũng không. Nhưng vì ông có vợ nên tôi trả lời cái gì cũng có!”

À, thì ra là thế, theo lời cao tăng thì có vợ là có tất cả -- từ thiên đường cho tới địa ngục!

**
Coi vậy mà không phải vậy? Có tất cả hay không có gì cả? Không có gì cả -- như chàng độc thân, như cái chân không -- mà lại có tất cả? Ở đây, người viết xin đi theo con đường Trung Đạo của nhà phật, miễn trả lời về vấn đề này. Chỉ xin đứng ngoài vòng “có không, không có” vậy. Vã lại, sự thật thường làm mất lòng người, đau lòng ta.


Kiều Tiến Dũng
Melbourne, Úc Châu
Tháng 7, 2013

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/03/2011(Xem: 5070)
Tôi có một người huynh đệ băn khoăn bởi một vấn đề. Đó là một đằng theo lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục, v.v.?” tức là không còn so sánh, phê phán, nhị biên, để hoà mình, thâm nhập với chân như. Đằng khác lại phải còn biết phải quấy để hành thiện, cải thiện, tức là còn nhị biên. Như vậy người huynh đệ tự hỏi: chánh kiến là hành thiện, hay không thiện, không ác?Và đi xa hơn một chút, thế nào là định nghĩa đúng của chữ hành thiện (vì có rất nhiều cạm bẫy hiểu lầm: biết bao nhiêu kẻ quá khích lại tưởng mình hành thiện)? Tôi có cảm tưởng rằng câu hỏi đặt ra cũng là câu hỏi chung của nhiều Phật tử, trong đó có tôi. Nỗi băn khoăn, khắc khoải đó hoàn toàn có căn cứ, và không phải là dễ dàng giải đáp.
12/03/2011(Xem: 8002)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
05/03/2011(Xem: 4335)
Áo nghĩa thư[1] thường được ghép vào trong phần phụ lục của Sâm lâm thư (Āraṇyaka), có khi lại được ghép vào trong phần phụ lục của Phạm thư (Brāhmaṇa), nhưng tính chất đặc biệt của nó như một chuyên luận riêng là điều luôn luôn được chú ý. Thế nên chúng ta nhận thấy trong một vài trường hợp, những chủ đề trông đợi được trình bày trong Phạm thư (Brāhmaṇa) lại thấy được giới thiệu trong Sâm lâm thư (Āranyaka), đôi khi bị nhầm lẫn thành một số lượng đồ sộ của các Áo nghĩa thư.
01/03/2011(Xem: 4494)
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, nền tư tưởng triết học của Ấn Độ đã trải qua những thay đổi lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó được đánh dấu bằng sự ra đời của các học phái phi Veda với nhiều học thuyết khác nhau, góp phần rất lớn làm suy giảm tầm ảnh hưởng của hệ thống Veda già cỗi. Và kể từ đây, lịch sử tư tưởng Ấn lại sang trang mới để rồi ghi nhận về sự tồn tại song hành của hai trường phái triết học khác nhau nhưng lại có quan hệ với nhau: hệ thống Bà-la-môn và hệ thống Sa-môn. Hệ thống Bà-la-môn lấy giáo nghĩa của Veda làm cơ sở và đang bước vào thời kỳ suy thoái.
22/02/2011(Xem: 5084)
Tôi không hề quan tâm đến chữ ism(...isme) [tức là chữ ...giáotrong từ tôn giáo]. Khi Đức Phật thuyết giảng Dharma[Đạo Pháp], Ngài không hề nói đến chữ ismmà chỉ thuyết giảng về một cái gì đó mà mọi tầng lớp con người đều có thể hấp thụ được : đấy là một nghệ thuật sống...[...]. Phải làm thế nào để trở thành một con người tốt – đấy mới chính là điều quan trọng. Thiền sư S. N. Goenka
19/02/2011(Xem: 4739)
“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng đế…Chúng ta cần một tôn giáo tạo ra những con người cho ra con người”. (Vivekananda)
19/02/2011(Xem: 3592)
Từ cổ chí kim, trong thâm tâm của mỗi người luôn cố gắng tìm kiếm và vạch ra bản chất của thế giới, thực chất bản tính của con người, sự tương đồng giữa nội tâm và ngoại tại, tìm con đường giải thoát tâm linh… Mỗi người tùy theo khả năng của mình đã cố gắng vén mở bức màn bí ẩn cuộc đời. Vì vậy, biết bao nhiêu nhà tư tưởng, tôn giáo, triết học ra đời với mục đích tìm cách thỏa mãn những nhu cầu tri thức và chỉ đường dẫn lối cho con người đạt tới hạnh phúc. Nhưng mỗi giáo phái lại có những quan điểm, tư tưởng khác nhau. Ở đây, với giới hạn của đề tài, ta chỉ tìm hiểu bản chất triết học của Bà-la-môn giáo dưới cái nhìn của đạo Phật như thế nào.
19/02/2011(Xem: 3621)
Là một phần trong cái hùng vĩ nền triết học Ấn Độ, Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự đóng góp to lớn, không những trên bình diện triết lý u huyền mà còn để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong từng nếp nghĩ, cử chỉ hay quan niệm sống của toàn thể dân tộc Ấn Độ. Và cũng vì là hai thực thể có cùng chung một dòng máu nên trong quá trình phát triển, cả hai đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau. Nhưng vì ra đời muộn hơn nên đã có không ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ thống lại các tư tưởng Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản biện của chủ nghĩa tôn giáo Ấn... Còn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc là thế này hoặc là thế kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu trong lòng của hai khối tư tưởng một thời đã từng được xem là đối kháng của nhau.
17/02/2011(Xem: 3595)
Nói rằng triết học Âu Tây giỏi và bảnh rồi, cho nên kiêu căng biệt cư, không cần chiếu “camé” vào để “thâu” một ít vốn ở các hệ thống triết học Á Đông nữa thì thật là không đúng. Nói rằng triết học Á Đông có một số mặc cảm rồi cam phận đơn cư thì lại càng tuyệt đối không đúng lắm nữa.
14/01/2011(Xem: 17103)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]