Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xin hãy tĩnh tâm.

09/04/201316:11(Xem: 7648)
Xin hãy tĩnh tâm.


Duc The Ton 5
Xin hãy tịnh tâm

Thiên Hương
---o0o---

Buổi sáng, trời hơi se lạnh và ẩm ướt âm u, hồi đêm hình như rất gió và ầm ì những tiếng sấm gợi lại những lo sợ xa xôi của thời còn chinh chiến. Nhìn ra khung cửa, đồi cỏ vẫn trải dài thoai thoải, những khu vườn xung quanh đã rực rỡ những đóa hoa xuân. Tiếng chim hót lảnh lót đầu hiên hòa nhịp dáng dấp nhí nhảnh của những chú chim sà mình xuống hàng rào rồi lại nhẹ cất cánh lên cao. Hồn nhẹ tâng theo những đám mây trời, tạ ơn đời sống, tạ ơn sự bình yên, tạ ơn những mượt mà của tạo hóa.

Bước ra khu vườn nhỏ, những ngọn cỏ bâng khuâng vẫn mơn man những nụ hoa dại nhỏ nhoi e ấp, cầm tờ báo ngày và ngơ ngác trước những bản tin để nhìn thấy đời sống phũ phàng đã đánh tan những dịu dàng nhỏ nhoi của buổi sáng. Bật vội TV để lại càng thêm hốt hoảng. Dấu tích 11 tháng chín còn đang đậm nét trong tâm tưởng và bây giờ lại biến cố 12 tháng mười tại Bali.

Những khuôn mặt trên báo còn rất trẻ, những nụ cười vẫn rất tươi và rất rạng rỡ, vậy mà họ đã tan đi đâu mất. Những dòng chữ missing, dead, injured, mourning nhảy múa những vũ điệu chiến tranh và tội ác. Hình như tôi đã đưa tay lau vội những dòng nước mắt, đã đưa tay ngăn vội những tiếng nấc trên môi, và hình như tôi chợt muốn mình đừng hiện hữu. Hãy chỉ là đám mây trời kia bay lang thang qua những thành phố hiền hòa và bé nhỏ. Hãy chỉ là những cơn mơ đầy ắp nụ cười. Hãy chỉ là những bông hoa nhỏ làm đẹp cho đời và làm đêm ngày thơm ngát hương hoa.

Đã mấy ngày trôi qua, báo chí, truyền hình, đâu đâu cũng phổ biến những tin tức về vụ nổ tại hộp đêm Sari tại Ba li. Đâu đâu cũng là những tìm kiếm những người mất tích, những bản tin về những sự việc xảy ra, và đâu đó vang vọng tiếng khóc than của những người có thân nhân nằm trong thảm kịch. Có những khuôn mặt khóc, có những tiếng than não lòng, có những dòng nước mắt và những bóng người vất vưởng đi trên những đường phố ở Bali để tìm kiếm những người thân. Và cùng trong lúc đó, ở một chốn nào lại có một nhóm người đang nhảy vui reo mừng chiến thắng, nở những nụ cười trên những xác chết, trên những đổ vỡ tan hoang.

Một buổi sáng nào năm xưa, hồn còn trong veo như lụa trắng. Tuổi 15 hướng đến cuộc đời với những thương yêu ngần ngật, sống với những ước mơ óng ả ngọt ngào của tuổi thơ ngà ngọc. Cài chiếc cặp lên tóc để chuẩn bị cho buổi thuyết trình Việt văn sắp tới. Khe khẽ mỉm cười khi nhớ tới nhỏ bạn trong buổi thuyết trình lần trước, cứ phải đưa tay vén hoài mái tóc cho khỏi xòa xuống trán. Tà áo lụa nhẹ bay theo làn gió ban mai, đời mềm như một vần thơ và êm như một nụ cười của bà tiên trong truyện cổ. Bước vào lớp, chợt nhìn thấy đám bạn đang láo nháo, những đôi mắt mới ngày hôm trước còn trong xanh đã ngập tràn những lo âu và hốt hoảng. Nhỏ bạn tôi vừa nghĩ tới hồi sáng không thấy có mặt. Căn nhà nhỏ của nó đã bị đặt bom hồi đêm. Bố nó và chị nó bị thương nặng, mẹ nó và đứa em còn nằm trong bụng đã chết. Một căn nhà của một cô bé lớp bảy trong trường cũng bị nổ trong gần cùng một thời điểm. Bầu trời lúc ấy hình như chợt tối đi nhiều lắm, những ước mơ và hi vọng của tuổi mới lớn đã tan nát vì những thực tại của chiến tranh. Hình ảnh đứa bạn tóc xõa tung vật vã trước hai quan tài một lớn một nhỏ. Hình ảnh căn nhà mà chúng tôi thỉnh thoảng ghé chơi sau những giờ tan học chỉ còn lại một đống gạch hoang tàn đổ nát. Cô bạn ấy sau đó rời trường, gia đình hình như tan nát, đến bây giờ tôi vẫn chưa gặp lại. Và nhiều năm sau, tôi được nghe kể lại, đó là thành tích đặt bom của một cô bạn khác học cùng khối lớp. Sau này cô kia đã lên hội trường thành phố kể lại để ăn mừng chiến thắng và thành tích của mình và để được ... tuyên dương.

Bao năm qua, tôi vẫn không thể hiểu được tại sao có những người lại có thể làm những công việc như thế. Bao năm qua, tôi vẫn không thể nào bình thản được trước những mảnh tin nhan nhản trên mặt báo. Nào những bom thư, nào những massacres hết xảy ra ở chỗ này lại ở chỗ kia, nào những vụ thảm sát và bắn sẻ, nào những vụ khủng bố và chém giết. Báo chí hình như cũng chỉ chờ dịp để đăng những bức hình khóc than vật vã, để in đậm khổ lớn những dòng chữ mô tả những khổ đau, những tàn ác, những thảm khốc bắt nguồn từ những tham vọng, những ẩn ức, hay những điên cuồng nào đó. Những nỗi buồn, những đau khổ, cùng với những dã man, những tội ác, được lập đi lập lại, được nhân đôi nhân ba và loang nhanh như vết dầu dưới làn sóng truyền thông.

Đời sống, tại sao không là những nốt nhạc dịu dàng kéo dài năm tháng và mềm mại như những tia nắng ban mai. Ngày xưa, trong một giờ học ngoại ngữ, một cô bạn trong phần bài tập đặt câu dùng conditional clauses đã viết một đoạn văn như thế này: “Tôi ước gì cuộc sống ướt đẫm yêu thương, những khẩu đại bác chỉ dùng kẹo ngọt làm đạn, và những quả bom khi nổ chỉ làm bắn tung những mảnh cofetti đủ màu”. Tôi đã nối thêm vào đó “và trong đêm tối, chỉ có những ánh pháo bông và những mảnh sao sáng lửa thay cho những ánh hoả châu”. Nếu và nếu, ước mơ và ước mơ, liệu có bao giờ những ước mơ và những phần sau chữ nếu được trở nên sự thật.

Cuộc sống sao quá vô thường. Trời sáng đó, rồi lại tối đó. Trăng sáng rồi trăng lại mờ, mặt trời mọc rồi mặt trời lại lặn, mùa xuân đến rồi lại đi, mùa thu qua để mùa đông lại tới. Người sinh rồi người lại diệt. Hạt bụi thành người rồi con người lại tan thành cát bụi. Cái vòng mang mang của tạo hóa, cái vòng sinh lão bệnh tử của kiếp nhân sinh đã quá khắc nghiệt, sao còn nỡ lòng nào tạo nên những thảm họa đau thương.

Làm sao cho mọi người đều biết yêu quý những đời sống của nhau và trân trọng những giây phút mong manh của cuộc sống. Làm sao cho những yêu thương chỉ đón nhận những yêu thương. Làm sao làm nhẹ đi những khe khắt của kiếp người. Tôi chỉ là một hạt bụi nhỏ nhoi, đi tìm một ngọn đuốc thắp sáng cho cuộc sống mình còn khó khăn, còn dám nói gì đến những chuyện xa xôi. Tâm mình còn chưa tịnh, còn chao đảo vì những nỗi buồn hoài không tan biến, nói chi đến hàn gắn những đau thương của chiến tranh. Thôi thì hãy tự tu tâm cho đừng nghiêng ngả, hãy tự tìm niềm vui trong từng giây phút, hãy tin vào trời, tin vào người và thành tâm xin lấy yên bình trong tâm tưởng. Tâm hãy an đi, mộng hãy trở lại bình thường. Hãy khép đôi bờ mắt để tìm ánh sáng của đạo đâu đó. Hãy ngồi tĩnh mặc để thấy trong tâm cảm nhận được đóa sen hồng đang rộ nở và ngan ngát hương thơm. Hãy rán nở nụ cười trong những ngày mưa gió để làm nhẹ bớt những khe khắt của thiên nhiên. Vậy thôi, sức nhỏ nhoi tôi còn làm thêm được gì nữa đâu ...

Đờisống,

Đâu bao giờ được như mình mơ ước,

Thôi hãy cứ mỉm cười trước những rạn vỡ thời gian

Hãy đưa tay hứng ánh nắng dịu dàng,

Hãy cứ sống như mình đang thường sống

Đừng nghĩ đến hư vô,

Đừng nghĩ đến vô thường,

Quên sân nhuế, quên xan tham, quên sầu não

Hãy cố tịnh tâm, quên bánh luân hồi

Quên câu sinh tử, quên vòng mông lung

Quên chữ thực hư, quên từ không sắc

Quên những nỗi buồn từ thưở hồng hoang

Quên những xót xa khắc khoải mỏi mòn

Hương trầm hư ảo lặng trầm mặc nhiên

Đưa tay hái đóa sen hồng,

U hờn xin trả biển ngàn xa khơi

Mênh mang khói sóng nhiệm màu

Lung linh cánh hạc ngọt ngào nắng lên

Hỏi tâm, tâm đã tịnh chưa

Hỏi mình, mình có quên buồn hay không

Hỏi trăng, hỏi gió, hỏi trời

Hỏi mây thanh tịnh, hỏi đời phù du

Hỏi hoa, hỏi bướm, hỏi chiều

Hỏi đêm, hỏi sáng, hỏi mình, hỏi ta

Hỏi trời, hỏi đất bao la

Sao cho tâm tịnh, cho lòng bình an...

Thiên Hương

Tháng mười 02

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/03/2011(Xem: 8010)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
05/03/2011(Xem: 4344)
Áo nghĩa thư[1] thường được ghép vào trong phần phụ lục của Sâm lâm thư (Āraṇyaka), có khi lại được ghép vào trong phần phụ lục của Phạm thư (Brāhmaṇa), nhưng tính chất đặc biệt của nó như một chuyên luận riêng là điều luôn luôn được chú ý. Thế nên chúng ta nhận thấy trong một vài trường hợp, những chủ đề trông đợi được trình bày trong Phạm thư (Brāhmaṇa) lại thấy được giới thiệu trong Sâm lâm thư (Āranyaka), đôi khi bị nhầm lẫn thành một số lượng đồ sộ của các Áo nghĩa thư.
01/03/2011(Xem: 4506)
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, nền tư tưởng triết học của Ấn Độ đã trải qua những thay đổi lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó được đánh dấu bằng sự ra đời của các học phái phi Veda với nhiều học thuyết khác nhau, góp phần rất lớn làm suy giảm tầm ảnh hưởng của hệ thống Veda già cỗi. Và kể từ đây, lịch sử tư tưởng Ấn lại sang trang mới để rồi ghi nhận về sự tồn tại song hành của hai trường phái triết học khác nhau nhưng lại có quan hệ với nhau: hệ thống Bà-la-môn và hệ thống Sa-môn. Hệ thống Bà-la-môn lấy giáo nghĩa của Veda làm cơ sở và đang bước vào thời kỳ suy thoái.
22/02/2011(Xem: 5101)
Tôi không hề quan tâm đến chữ ism(...isme) [tức là chữ ...giáotrong từ tôn giáo]. Khi Đức Phật thuyết giảng Dharma[Đạo Pháp], Ngài không hề nói đến chữ ismmà chỉ thuyết giảng về một cái gì đó mà mọi tầng lớp con người đều có thể hấp thụ được : đấy là một nghệ thuật sống...[...]. Phải làm thế nào để trở thành một con người tốt – đấy mới chính là điều quan trọng. Thiền sư S. N. Goenka
19/02/2011(Xem: 4750)
“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng đế…Chúng ta cần một tôn giáo tạo ra những con người cho ra con người”. (Vivekananda)
19/02/2011(Xem: 3601)
Từ cổ chí kim, trong thâm tâm của mỗi người luôn cố gắng tìm kiếm và vạch ra bản chất của thế giới, thực chất bản tính của con người, sự tương đồng giữa nội tâm và ngoại tại, tìm con đường giải thoát tâm linh… Mỗi người tùy theo khả năng của mình đã cố gắng vén mở bức màn bí ẩn cuộc đời. Vì vậy, biết bao nhiêu nhà tư tưởng, tôn giáo, triết học ra đời với mục đích tìm cách thỏa mãn những nhu cầu tri thức và chỉ đường dẫn lối cho con người đạt tới hạnh phúc. Nhưng mỗi giáo phái lại có những quan điểm, tư tưởng khác nhau. Ở đây, với giới hạn của đề tài, ta chỉ tìm hiểu bản chất triết học của Bà-la-môn giáo dưới cái nhìn của đạo Phật như thế nào.
19/02/2011(Xem: 3630)
Là một phần trong cái hùng vĩ nền triết học Ấn Độ, Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự đóng góp to lớn, không những trên bình diện triết lý u huyền mà còn để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong từng nếp nghĩ, cử chỉ hay quan niệm sống của toàn thể dân tộc Ấn Độ. Và cũng vì là hai thực thể có cùng chung một dòng máu nên trong quá trình phát triển, cả hai đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau. Nhưng vì ra đời muộn hơn nên đã có không ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ thống lại các tư tưởng Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản biện của chủ nghĩa tôn giáo Ấn... Còn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc là thế này hoặc là thế kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu trong lòng của hai khối tư tưởng một thời đã từng được xem là đối kháng của nhau.
17/02/2011(Xem: 3609)
Nói rằng triết học Âu Tây giỏi và bảnh rồi, cho nên kiêu căng biệt cư, không cần chiếu “camé” vào để “thâu” một ít vốn ở các hệ thống triết học Á Đông nữa thì thật là không đúng. Nói rằng triết học Á Đông có một số mặc cảm rồi cam phận đơn cư thì lại càng tuyệt đối không đúng lắm nữa.
14/01/2011(Xem: 17136)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
14/01/2011(Xem: 9670)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]