Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Chiến thắng và chiến bại

15/04/201214:23(Xem: 8000)
05. Chiến thắng và chiến bại
KHỔ ĐAU PHÁT SINH VÀ VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO
Hoang Phong biên soạn và dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2012

CHIẾN THẮNG và CHIẾN BẠI
Kinh SANGAMA- SUTTA

Dướiđây là một bản kinh ngắn trích từ Tương ưng bộ kinh(Samyutta-Nikaya),gồm 5 quyển, Ấn bản PTS, 1892-1898. Bản kinh này được Đại Đức Môhan Wijayaratnadịch từ tiếng Pali sang tiếng Pháp trong quyển "Những bài thuyết pháp của Đức Phật"(LesSermons du Bouddha, nhà xuất bản Cerf, 1988, Paris, tr.46-48). Tên của bàikinh này là Sangama(tiếng Pali) cónghĩa là một trận chiến haymột cuộc chiến.

Một lần, Đấng Thế Tôn đang ở thành XáVệ (Savatthi). Lúc đó vua Vedehiputta Ajatasattu của xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) đangthúc quân gồm bốn sư đoàn (1) tiến đến tận thành Kasi để khai chiến với vuaPasenadi Kosala của xứ Kiều Tát La (Kosala). Hay tin vua Vedehiputta mang quântấn công lãnh thổ của mình, vua Pasenadi cũng tức thời khởi binh kéo bốn sưđoàn đến thành Kasi để nghênh chiến. Thế là hai vị quốc vương xua quân nhập trậnvà sau một cuộc hỗn chiến thì vua Vedehiputta đánh thắng được vua Pasenadi. Vịvua bại trận phải rút về kinh đô của mình là thành Xá Vệ.

Hôm đó, như thường lệ các đệ tửkhoác áo (2), ôm bình bát đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Sau khi khất thực trởvề và ăn xong thì họ tìm đến bên cạnh Đấng Thế Tôn. Khi đến gần thì họ đảnh lễĐấng Thế Tôn rồi lùi ra ngồi một bên. Tiếp theo đó họ trình với Đấng Thế Tônnhư thế này : "Bạch Thế Tôn, vua Vedehiputta Ajatasattu của xứ Ma Kiệt Đàkhởi binh gồm bốn sư đoàn tiến về thành Kasi để khai chiến với vua PasedaniKosala. Vua Pasedani hay tin vua Vedehiputta xua quân xâm lược, cũng đã khởibinh gồm bốn sư đoàn tiến về thành Kasi để chống lại quân của vua Vedehiputta(...)".

Đấng Thế Tôn nói như sau :

"Này các tỳ kheo, Vedehiputta là một người bạn thiếu đạo hạnh, là mộtngười đồng hành thiếu đạo hạnh, là một người thân thuộc thiếu đạo hạnh (3).Này các tỳ kheo, trong khi đó thì vuaPasedani Kosala là một người bạn đạo hạnh, là một người đồng hành đạo hạnh, làmột người thân thuộc đạo hạnh. Trong lúc này vì thất bại nên vua PasedaniKosala sẽ phải chịu cảnh đau buồn ".

Kế đó Đấng Thế Tôn nói tiếp như sau:

" Chiến tranh gây ra hận thù,

Kẻ bại trận rơi vào cảnh khốn cùng.

Ai muốn tìm lấy sự yên tịnh,

Từ bỏ mọi ý nghĩ về chiến thắng hay bại trận,

Sẽ tìm thấy an lạc cho chính mình".

[Mộtthời gian sau, vào một lần khác], vua Vedehiputta của xứ Ma Kiệt Đà một lần nữalại khởi binh gồm bốn sư đoàn tiến đến thành Kasi để khai chiến với vuaPasedani của xứ Kiều Tát La. Hay tin vua Vedehiputta xua quân tấn công, vuaPasedani cũng khởi binh gồm bốn sư đoàn tiến về thành Kasi để chống lại. Thế làhai vị quốc vương xua quân vào trận chiến. Lầnnày, vua Pasedani là người chiến thắng, bắt sống được vua Vedehiputta. VuaPasedani tự nhủ rằng : "Mặc dầu ta không hề hận thù vị vua này, [nhưng] vịvua này lại hận thù ta. Và dầu sao đi nữa, hắn cũng là cháu ta (4). [Vì thế] tachỉ nên tóm thâu quân đội của hắn mà thôi, gồm sư đoàn voi trận, sư đoàn kỵbinh, sư đoàn chiến xa, sư đoàn bộ binh. Riêng Vedehiputta thì ta không giết màtha cho hắn được tự do". Và thế là vua Pasedani tịch thu cả đạo quân củaVedehiputta và tha cho ông ta.

Vào sáng sớm tinh sươnghôm đó, nhiều đệ tử mặc áo cà sa, ôm bình bát và khoác thêm áo ấm đi vào thànhXá Vệ khất thực. Sau khi khất thực trở về và ăn xong thì các vị tỳ kheo tìm đếnbên cạnh đấng Thế Tôn. Khi đến gần thì họ đảnh lễ Đấng Thế Tôn rồi lùi ra ngồi một bên. Tiếp theo đó họ trình với ĐấngThế Tôn như sau: "Bạch Thế Tôn, vua Vedehiputta của xứ Ma Kiệt Đà xuaquân gồm có bốn sư đoàn tiến đến tận thành Kasi khai chiến với vua PasedaniKosala. Vua Pasedani sau khi hay tin vua Vedehiputta kéo quân xâm lăng, cũng khởibinh gồm bốn sư đoàn tiến đến thành Kasi để chống cự với quân của vuaVedehiputta (...). Thế là vua Pasedani tịch thu cả quân đội của Vedehiputta vàtha cho vị vua này".

Sau khi nghe thuật lạichuyện và biết đuợc tự sự, Đấng Thế Tôn nói như sau :

"Một người làm tan tành sự nghiệp của ngườikhác

cho đến một lúc hành động (nghiệp) của mình sẽ làm tan tành sự nghiệpcủa chính mình.

Tuy thế, khi sự nghiệp của mình đã bị người khác làmcho tan tành,

và dù cho sự nghiệp đã tan tành, thì mình vẫn cứ làmcho người khác phải tan tành sự nghiệp.

Đến một lúc nào đó thì hành động (nghiệp)của mình sẽ chín muồi,

[Nhưng]kẻ ngu đần lại cứ tưởng rằng : "đây là thời cơ của mình đã đến".

Tuy nhiên, khi hành động (nghiệp)của mình đến lúc đã chín muồi,

thì kẻ ngu đần ấy không sao thoát khỏi khổ đau.

Người sát nhân sẽ tìm thấy kẻ giết mình trong tươnglai,

người chiến thắng sẽ tìm thấy kẻ đánh bại mình trongtương lai,

kẻ xúc phạm người khác sẽ tìm thấy người xúc phạm lạimình trong tương lai,

kẻ gian ác sẽ tìm thấy người gian ác với mình trongtương lai,

thế đó, tùy vào sự chín muồi của hành động đã thựcthi,

và dù cho sự nghiệp đã tan tành, nhưng hắn (kẻ ngu đần) vẫn làm cho tan tành sự nghiệp của người khác.

(Samyutta-Nikaya,I, 82-85)

Vài lời góp ý của người dịch :

Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, chiếntranh mang tính cách trực tiếp và đơn giản hơn ngày nay rất nhiều, và chiến thắnghay chiến bại do đó cũng minh bạch hơn. Ngày nay xã hội con người trở nên phứctạp hơn, chiến tranh cũng theo đó mà đa dạng hơn, mang nhiều sắc thái và khía cạnhkhác nhau, từ kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa cho đến nhân phẩm và cả sự tựtrọng của một dân tộc. Vì thế mà chiến thắng trên một khía cạnh nào đó cũng khôngcó nghĩa là chiến thắng được tất cả.

Câu chuyện chiến tranh trên đây chothấy trên cùng một mặt trận Kasi nhưng lúc thì vua này thắng, lúc thì vua kiathắng, vì thế không có một chiến thắng nào muôn đời, cũng không có một chiến bạinào mãi mãi. Cái chiến thắng vững bền hơn hết là chiến thắng chính mình trước nhữngkhích động của bản năng và tham vọng. Khi nào ta vẫn còn quan tâm đến chiến thắngvà chiến bại thì khi đó ta vẫn còn nô lệ cho những xúc cảm bấn loạn trong lòng.Trong kinh SangamaĐức Phật đã dạy nhưsau : "Nếu ai biết tìm lấy sự yên tịnh, đừng nghĩ đếnmình là người chiến thắng hay chiến bại, thì người ấy sẽ tìm thấy sự an lạc".

Bures-Sur-Yvette,15.07.10

Hoang Phong

Ghi chú :

1-Bốn sư đoàn có nghĩa là : sư đoàn voi trận, sự đoàn kỵ binh, sư đoàn chiến xa,sư đoàn bộ binh.

2- Khoác áo : có nghĩa là ngườitỳ kheo mặc thêm một áo ấm may bằng hai lớp vải gọi là sanghati.

3- Thiếu đạo hạnh ở đây có ý ámchỉ vua Vedehiputta Ajatasattu đã cướp ngôi cha, nhốt cha mình vào ngục và cốtình để cho cha chết đói.

4- Vua Vedehiputta Ajatasattu làcon trai của chị vua Pasedani Kosala, tức là cháu cùa vua Pasedani Kosala và gọivua Pasedani Kosala bằng cậu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/05/2013(Xem: 4400)
Nghiên Cứu Triết Học Trung Quán
23/04/2013(Xem: 27885)
H.T.Thích Mãn Giác, sanh năm Kỷ Tỵ tại Cố Đố Huế. Nguyên quán Làng Phương Lang, Quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Xuất gia nhập đạo năm 11 tuổi. Thọ Đại Giới năm 1948 cùng một lần với Hòa Thượng Thiện Siêu, cố Hòa Thượng Thiện Minh, cố Hòa Thượng Thiên Ân…
22/04/2013(Xem: 3877)
Sự chọn lựa kỹ càng người để chúng ta giao tiếp thân mật, gần gũi là điều cực kỳ quan trọng trong giáo lý của Đức Phật đối với người cư sĩ.
09/04/2013(Xem: 12505)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt. Trời đất như đã thay loài người nói lên ý nghĩa của sự sống, . . .
09/04/2013(Xem: 7704)
Buổi sáng, trời hơi se lạnh và ẩm ướt âm u, hồi đêm hình như rất gió và ầm ì những tiếng sấm gợi lại những lo sợ xa xôi của thời còn chinh chiến. Nhìn ra khung cửa, đồi cỏ vẫn trải dài thoai thoải, những khu vườn xung quanh đã rực rỡ những đóa hoa xuân.
09/04/2013(Xem: 2157)
Ngược dòng thời gian năm 1984, tôi viết quyển sách đầu tiên ‘Chìa Khóa cho người Tỵ Nạn’ dành cho những người tỵ nạn Đông Nam Á, giúp họ giữ vững niềm tin và hiểu biết tường tận hơn về tôn giáo của mình để đối đầu với các hành động có hậu ý của các nhà truyền giáo Ki tô muốn họ cải đạo.
09/04/2013(Xem: 6692)
Sự phán xét công bằng và hợp lý về một sự việc đã xảy ra, một hành động đã làm là công lý hay bất công, thông suốt hay vướng mắc, oan hay không oan thường không đơn giản, rõ ràng và cụ thể như trắng với đen, sáng với tối. Do đó, sự phân định và quyết đoán rạch ròi những hành động hay sự cố xảy ra, đã vi phạm đến mạng sống, tài sản và tinh thần... là oan hay không oan thường bị vướng mắc do vị thế, quan điểm, văn hóa và cả một chuỗi hệ lụy theo sau.
09/04/2013(Xem: 10386)
Tất cả chúng sanh đều vô thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật-pháp mà tạo ra các nghiệp, rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay vành mãi theo bánh xe sanh tử luân-hồi. Nếu con người hiểu rỏ một cách chắc chắn rằng: tất cả các pháp trong vũ-trụ, nhân và ngã đều không thật có, chỉ do thức biến hiện, như cảnh trong chiêm bao, mà không còn gây phiền não, tạo nghiệp-chướng nữa, thì tất không còn bị ràng buộc, trong bánh xe sanh tử luân hồi. Để phá trừ hai món chấp thật-ngã và thật-pháp, Đức-Phật có rất nhiều phương-pháp, có rất nhiều pháp thiền, mà Duy-Thức-Tôn hay Pháp-tướng-tôn là một pháp tu rất cần thiết, rất hiệu-nghiệm để đi đến giải-thoát.
09/04/2013(Xem: 12100)
Nếu bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa trung hải. Phía nam là hòn đảo Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch (tTL) đó là nơi khởi đầu của văn minh nhân loại.
08/04/2013(Xem: 26268)
Cuốn sách này gạn lọc trí tuệ hàng ngàn năm của Phật Giáo Tây Tạng, được chuyển tải bằng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Mục đích chính yếu của tôi là trình bày những giáo lý không chỉ có tính cách chữa trị sự đau khổ và vô minh của chúng ta về sự chết và sự hấp hối mà còn giúp chúng ta chứng đạt mục tiêu an lạc vô thượng, không những cho đời này mà còn cho sự chết và cõi bên kia nữa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]