Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Đại đức Hui Li: Một trong những bài học đầu tiên trong Phật giáo là vô thường

07/07/201208:07(Xem: 8388)
11. Đại đức Hui Li: Một trong những bài học đầu tiên trong Phật giáo là vô thường
TRÍ TUỆ TRONG PHẬT GIÁO
Hoang Phong

PHẦN II

CÁC BÀI DỊCH CỦA HOANG PHONG

ĐẠI ĐỨC HUI LI

Một trong những bài học đầu tiên trong Phật giáo là vô thường
Bài phỏng vấn của nữ ký giả Béatrice HOPE

Hui_LiLời giới thiệu của người dịch: Phật giáo ngày nay không những đượcphổ biến trong các quốc gia tân tiến ở Âu châu và Mỹ châu mà còn đi sâu vàonhững vùng xa xôi mà phần đông chúng ta không ngờ đến. Dưới đây là phần chuyểnngữ một bài báo phỏng vấn một nhà sư người Đài Loan rất tích cực trong việchoằng pháp trên lục địa Phi châu. Bài báo được đăng ngày 30.10.09, trên tạp chíL’Express bằng tiếng Pháp của xứ Maurice và trên mạng epaper.lexpres.mucũng của quốc gia này.

Lời giới thiệu của ký giả Béatrice Hope :Nhàsư Hui Li đã ghé vào đảo Maurice từ 26 đến 28 tháng 10, năm 2009. Ông dự địnhmở một tu viện để nuôi trẻ mồ côi tại đây. Nhu cầu nuôi dưỡng và chi phí giáodục trẻ mồ côi sẽ được chu cấp đầy đủ, đồng thời giáo lý của Đức Phật cũng sẽđược mang ra giảng dạy cho các em. Đại đức Hui Li là một nhà sư được nhiềungười biết đến, nhất là giới phật tử trong các quốc gia như Đài Loan, lục địaTrung quốc, Nam Phi. Dưới danh nghĩa Phật giáo Đài Loan và chùa Fo Guang Shan (PhổQuang Sơn ?), chính ông đã đứng ra xây dựng ngôi chùa đầu tiên và vàcũng là ngôi chùa lớn nhất trên lục địa Phi châu vào năm 1992, ngôi chùa nàymang tên là Nan Hua và cũng là nơi dùng để giảng dạy Phật Pháp. Ngôi chùa NanHua tọa lạc trong vùng Bronhorstpruit tại Nam Phi.

Bài phỏng vấn nhà sư Hui Li

Thưa ông, ông thuộc vào trường phái Phật giáo nào?

Tôilà đệ tử của Hòa thượng Hsing Yun người đã thành lập ngôi chùa Phổ Quang Sơn ởĐài Loan. Tôi thuộc học phái Thiền tông, tiếng phổ thông gọi là Chan vàtiếng Nhật gọi là Zen, đó là một học phái chú trọng đến sự suy tư vànhập định.

Những sinh hoạt của ông hiện nay là gì?

Ngoàingôi chùa Nan Hua, tôi còn xây dựng được nhiều trung tâm khác ở Phi châu đểnuôi dạy trẻ mồ côi. Tôi xây dựng trung tâm đầu tiên Amitofo Care Centre(Trung tâm Bảo dưỡng A-Di-Đà) vào năm 2003.

Hiệnnay thì tôi đang quản lý tất cả năm Trung tâm như thế: hai ở Malawi, mộtở Zimbabwe, một ở Lesotho và một ở Swaziland. Tôi cũng đang dự tính thành lậpthêm nhiều trung tâm khác trên phần lục địa này.

Hiệnnay có khoảng 3000 trẻ em đang được nuôi dững trong các trung tâm A-Di-Đà trên đây.Các em thuộc vào lứa tuổi từ 4 đến 15. Chúng tôi chăm sóc chúng như con nuôi vìcha mẹ chúng đã chết vì bịnh SIDA/HIV. Chúng tôi muốn mở ra cho chúng một chútviễn tượng của tương lai.

Ông đã dạy dỗ cho chúng những điều gì?

Cácmôn như tiếng phổ thông, cách hành thiền và võ thiếu lâm là các môn chính đượcđem ra dạy dỗ cho các em. Hiện nay, chúng tôi chỉ đủ sức phụ trách giảng dạyđến cấp tiểu học. Tuy nhiên cấp trung học sẽ được mở thêm trong tương lai gầnđây.

Động cơ nào đã thúc đẩy ông ghé đến đảo Maurice?

Tôinhận lời mời của Ni sư Shi-sen Miow sinh sống ở Maurice. Bà đã ngỏ lời mời tôinhiều lần, tuy nhiên trước đây tôi chưa tìm được dịp nào thuận tiện.

Ông có dự tính thiết lập một trung tâm hay một ngôi chùa nào ở đâyhay không?

Tôicũng đang nghĩ đến việc ấy. Tốt hơn hết có lẽ nên thành lập một tu viện tiếpnhận trẻ mồ côi trước đã. Dù sao thì tôi cũng đang bận rộn trong việc quản lývà xây dựng thêm các trung tâm A-Di-Đà trên lục địa Phi châu... Hơn nữa, cònnhiều trở ngại trong công tác vận động trên phần đất này vì chúng tôi không nóiđược các ngôn ngữ của quý vị. Ngoài ra còn một điều nữa là chính quyền Mauricecó sẵn sàng cấp cho chúng tôi giấy phép xây cất hay không. Hiện nay thì tôichưa có thể tuyên bố gì cả... Còn phải chờ xem sao.

Phật giáo đã hiện diện trên lục địa Phi châu. Vả lại cũng phải nóilà Phật giáo ngày càng phổ cập khắp nơi trên thế giới. Vậy ông có thể giảithích thật đơn giản giáo lý của Đức Phật là gì ?

Phậtgiáo được thiết lập bởi một người mang tên là Sĩ-đạt-ta Cồ-đàm. Vị ấy là vịPhật đầu tiên.

Đốivới các tôn giáo khác, Trời chính là vị đã sáng tạo ra Địa cầu. Đức Phật khônghề tự gán cho mình cái chức năng ấy. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải tin mộtcách mù quáng vào các lời giáo huấn của Ngài. Trái lại Ngài chỉ đơn giản khuyênbảo chúng ta hãy đem thực hành những lời giáo huấn ấy trước đã và sau đó tựmình xác định xem có thích hợp cho mình hay không.

Mộttrong những bài học đầu tiên trong Phật giáo là vô thường. Chúng tôihiểu rằng tất cả mọi hiện tượng đều đổi thay. Chỉ có chính sự kiện đó [tức làvô thường] là không thay đổi mà thôi.

Chúngtôi cũng quán nhận được là những cảm nhận của chúng tôi về thế giới này đượctạo dựng là do những gì đang xảy ra theo từng giây phút một trong con tim củachúng tôi, những phát hiện đó xảy ra một cách thật trung thực trong từng giâyphút một.

Chínhvì thế mà suốt trong 24 giờ, trong mỗi cá thể con người đều hiển hiện ra1 000 tư duy khác nhau chung với thật nhiều thể dạng tâm thức khác nhau,tương đương với con số những tư duy.

Mỗicon người đều cảm nhận được sự vui mừng, giận dữ, buồn khổ... Tất cả những giáccảm ấy đều phát sinh từ một con tim duy nhất.

Mộtbài học khác là sự tương liên của tất cả những gì hiện hữu. Chúng tôihiểu rằng mỗi vật thể đều được cấu hợp bởi vô số thành phần. Khi đem tách rờicác thành phần, thì vật thể ấy không còn nữa. Bởi vì tất cả đều liên kết vớinhau.

Tuynhiên một trong những lời dạy bảo căn bản nhất của Đức Phật là trong cuộc sốngnày ta phải luôn luôn canh chừng từng tư duy và từng hành động của mình. Chúngsẽ tích lũy và ảnh hưởng đến nghiệp của chính mình. Vì lý do đó mà chúng taphải hành động một cách thật chín chắn. Vả lại cũng có thể nói rằng«Phật» chính là sự «Giác ngộ»..

Ghi chú của người dịch:

Nước Cộng Hòa Maurice được chính thức thành lập vào ngày 12 tháng 3 năm 1992sau khi dành được độc lập vào năm 1962. Thật ra lãnh thổ Công hòa Maurice chỉlà một hòn đảo nhỏ nằm vào phía tây nam của Ấn độ dương bên cạnh đảoMadagascar, thuộc bờ đông nam của lục địa Phi châu.

Đảo có diện tích 1866 km², dân chúng sống nhờ vào kỷ nghệ trồng mía và trà, vìthế rừng bị tàn phá gần hết chỉ còn lại một vài đốm nhỏ trong các vùng núi.Người Hòa lan tìm ra đảo này trước nhất. Người Pháp tuy đến sau nhưng lại thànhlập được thuộc địa tại đây. Dân số hiện nay là 1 268 835 người (thống kêngày mùng 1 tháng 7 năm 2008).

Trước tiên là người Pháp kéo nhau đổ bộ lên đảo để thiết lập thuộc địa, sau đóđến lượt người Anh và tiếp theo đó là các sắc dân nô lệ do người da trắng đưatừ lục địa Phi châu lên đảo. Sau hết là người Trung hoa và người Ấn độ cũng didân đến đây. Ngôn ngữ chính gồm tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng créole tức là mộtthứ ngôn ngữ pha trộn của dân địa phương sinh đẻ trên đảo. Các ngôn ngữ phụ gồmcó các tiếng : hindi, bhojpuri, ourdu, tiếng phổ thông, hakka và tamoul.

Hiện nay người gốc Ấn chiếm 68% dân số, trong số này có 16% theo Hồi giáo. Nhómngười này đang tích cực «Ấn hóa» toàn thể đảo Maurice, họchiếm giữ chính quyền mà trước đây thuộc vào tay của thiểu số người da trắng.Dân lai da trắng sinh đẻ tại chỗ gọi là dân Créole chiếm 27%, số người này theoThiên chúa giáo. Người Trung hoa chỉ chiếm 3%, nhưng lại là nhóm dân tích cựchơn cả, họ nắm giữ thương trường và kinh tế. Sau hết là thiểu số người da trắnggồm 2%, tượng trưng cho tầng lớp «quý phái» của thời kỳ thuộc địarơi rớt lại.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/03/2011(Xem: 5093)
Tôi có một người huynh đệ băn khoăn bởi một vấn đề. Đó là một đằng theo lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục, v.v.?” tức là không còn so sánh, phê phán, nhị biên, để hoà mình, thâm nhập với chân như. Đằng khác lại phải còn biết phải quấy để hành thiện, cải thiện, tức là còn nhị biên. Như vậy người huynh đệ tự hỏi: chánh kiến là hành thiện, hay không thiện, không ác?Và đi xa hơn một chút, thế nào là định nghĩa đúng của chữ hành thiện (vì có rất nhiều cạm bẫy hiểu lầm: biết bao nhiêu kẻ quá khích lại tưởng mình hành thiện)? Tôi có cảm tưởng rằng câu hỏi đặt ra cũng là câu hỏi chung của nhiều Phật tử, trong đó có tôi. Nỗi băn khoăn, khắc khoải đó hoàn toàn có căn cứ, và không phải là dễ dàng giải đáp.
12/03/2011(Xem: 8012)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
05/03/2011(Xem: 4346)
Áo nghĩa thư[1] thường được ghép vào trong phần phụ lục của Sâm lâm thư (Āraṇyaka), có khi lại được ghép vào trong phần phụ lục của Phạm thư (Brāhmaṇa), nhưng tính chất đặc biệt của nó như một chuyên luận riêng là điều luôn luôn được chú ý. Thế nên chúng ta nhận thấy trong một vài trường hợp, những chủ đề trông đợi được trình bày trong Phạm thư (Brāhmaṇa) lại thấy được giới thiệu trong Sâm lâm thư (Āranyaka), đôi khi bị nhầm lẫn thành một số lượng đồ sộ của các Áo nghĩa thư.
01/03/2011(Xem: 4507)
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, nền tư tưởng triết học của Ấn Độ đã trải qua những thay đổi lớn lao cả về hình thức lẫn nội dung. Nó được đánh dấu bằng sự ra đời của các học phái phi Veda với nhiều học thuyết khác nhau, góp phần rất lớn làm suy giảm tầm ảnh hưởng của hệ thống Veda già cỗi. Và kể từ đây, lịch sử tư tưởng Ấn lại sang trang mới để rồi ghi nhận về sự tồn tại song hành của hai trường phái triết học khác nhau nhưng lại có quan hệ với nhau: hệ thống Bà-la-môn và hệ thống Sa-môn. Hệ thống Bà-la-môn lấy giáo nghĩa của Veda làm cơ sở và đang bước vào thời kỳ suy thoái.
22/02/2011(Xem: 5110)
Tôi không hề quan tâm đến chữ ism(...isme) [tức là chữ ...giáotrong từ tôn giáo]. Khi Đức Phật thuyết giảng Dharma[Đạo Pháp], Ngài không hề nói đến chữ ismmà chỉ thuyết giảng về một cái gì đó mà mọi tầng lớp con người đều có thể hấp thụ được : đấy là một nghệ thuật sống...[...]. Phải làm thế nào để trở thành một con người tốt – đấy mới chính là điều quan trọng. Thiền sư S. N. Goenka
19/02/2011(Xem: 4750)
“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng đế…Chúng ta cần một tôn giáo tạo ra những con người cho ra con người”. (Vivekananda)
19/02/2011(Xem: 3602)
Từ cổ chí kim, trong thâm tâm của mỗi người luôn cố gắng tìm kiếm và vạch ra bản chất của thế giới, thực chất bản tính của con người, sự tương đồng giữa nội tâm và ngoại tại, tìm con đường giải thoát tâm linh… Mỗi người tùy theo khả năng của mình đã cố gắng vén mở bức màn bí ẩn cuộc đời. Vì vậy, biết bao nhiêu nhà tư tưởng, tôn giáo, triết học ra đời với mục đích tìm cách thỏa mãn những nhu cầu tri thức và chỉ đường dẫn lối cho con người đạt tới hạnh phúc. Nhưng mỗi giáo phái lại có những quan điểm, tư tưởng khác nhau. Ở đây, với giới hạn của đề tài, ta chỉ tìm hiểu bản chất triết học của Bà-la-môn giáo dưới cái nhìn của đạo Phật như thế nào.
19/02/2011(Xem: 3633)
Là một phần trong cái hùng vĩ nền triết học Ấn Độ, Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự đóng góp to lớn, không những trên bình diện triết lý u huyền mà còn để lại những ảnh hưởng sâu đậm trong từng nếp nghĩ, cử chỉ hay quan niệm sống của toàn thể dân tộc Ấn Độ. Và cũng vì là hai thực thể có cùng chung một dòng máu nên trong quá trình phát triển, cả hai đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau. Nhưng vì ra đời muộn hơn nên đã có không ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ thống lại các tư tưởng Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản biện của chủ nghĩa tôn giáo Ấn... Còn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc là thế này hoặc là thế kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu trong lòng của hai khối tư tưởng một thời đã từng được xem là đối kháng của nhau.
17/02/2011(Xem: 3612)
Nói rằng triết học Âu Tây giỏi và bảnh rồi, cho nên kiêu căng biệt cư, không cần chiếu “camé” vào để “thâu” một ít vốn ở các hệ thống triết học Á Đông nữa thì thật là không đúng. Nói rằng triết học Á Đông có một số mặc cảm rồi cam phận đơn cư thì lại càng tuyệt đối không đúng lắm nữa.
14/01/2011(Xem: 17145)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]