Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Bombay, ngày 6 tháng 1 năm 1960

01/07/201100:59(Xem: 4277)
1. Bombay, ngày 6 tháng 1 năm 1960

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Bombay, ngày 6 tháng 1 năm 1960

Cái trí là cái đã được biết – cái đã được biết là những điều đã được trải nghiệm. Với sự đo lường đó, chúng ta cố gắng biết cái không biết được. Nhưng chắc chắn cái đã được biết không bao giờ có thể biết cái không biết được; nó chỉ có thể biết cái gì nó đã trải nghiệm, cái gì nó đã được dạy bảo, cái gì nó đã thâu lượm. Liệu cái trí có thể thấy sự thật rằng nó không có khả năng riêng để biết cái không biết được hay không?

Chắc chắn nếu tôi thấy rất rõ ràng rằng cái trí của tôi không thể biết cái không biết được, có sự tĩnh lặng tuyệt đối. Nếu tôi cảm thấy rằng tôi có thể nắm bắt cái không biết được bằng những khả năng của cái đã được biết, tôi tạo ra vô số nhiễu loạn; tôi nói chuyện, tôi khước từ, tôi chọn lựa, tôi cố gắng tìm ra một phương cách dẫn đến nó. Nhưng nếu cái trí thấy rằng nó hoàn toàn không có khả năng riêng để nhận biết cái không biết được, nếu nó trực nhận rằng nó không thể dùng bất kỳ phương cách nào để tìm ra cái không biết được, vậy thì điều gì xảy ra? Vậy thì cái trí trở nên tĩnh lặng tuyệt đối. Nó không bị vô vọng; nó không còn đang tìm kiếm bất kỳ điều gì nữa.

Chuyển động của tìm kiếm chỉ có thể từ cái đã được biết đến cái đã được biết, và mọi việc mà cái trí có thể làm là tỉnh thức rằng chuyển động này sẽ không bao giờ khai phá cái không biết được. Bất kỳ chuyển động nào được thực hiện bởi cái đã được biết vẫn còn trong lãnh vực của cái đã được biết. Đó là điều duy nhất tôi phải trực nhận; đó là điều duy nhất cái trí phải thấy. Vậy thì, nếu không có bất kỳ kích động, nếu không có bất kỳ mục đích nào, cái là tĩnh lặng.

Bạn không thấy tình yêu là tĩnh lặng hay sao? Nó có lẽ như vậy khi nắm tay một người khác, hay nhìn đầy thương yêu một đứa trẻ, hay quan sát vẻ đẹp của một chiều tối. Tình yêu không có quá khứ hay tương lai, và vì vậy nó ở trong trạng thái lạ thường của tĩnh lặng này. Và nếu không có tĩnh lặng này, mà là trống không trọn vẹn, không có sáng tạo. Bạn có lẽ rất khôn ngoan trong khả năng của bạn, nhưng nơi nào không có sáng tạo, có hủy diệt, thoái hóa, và cái trí tàn tạ.

Khi cái trí trống không, tĩnh lặng, khi nó ở trong một trạng thái tiêu cực hoàn toàn – mà không là trơ trơ, cũng không là đối nghịch của tích cực, nhưng một trạng thái hoàn toàn khác hẳn mà trong đó mọi tư tưởng đã kết thúc – chỉ lúc đó mới có thể cho cái không thể đặt tên hiện diện.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 12820)
Quyển “Quan Niệm Triết Học Của Duy Thức” được dịch ra từ nơi Tác Phẩm “DUY THỨC SỬ QUAN DỮ KỲ TRIẾT HỌC” của tác giả Pháp Sư Pháp Phảng. Nội dung tác phẩm DUY THỨC SỬ QUAN DỮ KỲ TRIẾT HỌC” của Pháp sư Pháp Phảng sáng tác gồm có hai phần: phần sử học và phần triết học. “Duy Thức Sử Quan” thì thuộc về phần sử học và “Dữ Kỳ Triết Học” thì thuộc về phần triết học. Tôi tách hai phần này ra thành hai quyển sách riêng biệt với hai danh xưng khác nhau.
08/04/2013(Xem: 11291)
Nghiên cứu về triết học Ấn Độ, chúng ta thấy rằng, không phải vì sự nhận định hay công nhận của toàn thể học giả, duy chỉ là do dựa vào ý kiến của một số đông mà triết học Ấn Độ được chia làm 6 phái. Danh từ Sïadïarsùana là chỉ cho 6 phái triết học, tức 6 tư tưởng hệ của 6 triết thuyết được kể như sau: Pùrva-Mìmàmïsà (tiền Di Man Tác), Sàmïkhya (Số Luận), Yoga (Du Già), Vaisùesïika (Thắng Luận), Nyàya (Chánh Lý) và Vedànta (Phệ Đàn Đa).
08/04/2013(Xem: 3271)
Phật giáo (PG) là một thành tố quan trọng hỗn hợp các triết lý khác của tiểu lục địa Ấn Độ trong hơn một ngàn năm qua. Từ phần đầu khá lặng lẽ vài thế kỷ trước Tây lịch, nền học thuật PG gia tăng sức mạnh cho tới khi đạt đến đỉnh cao ảnh hưởng và tính chất độc đáo trong nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất. Từ thế kỷ thứ mười một trở đi, PG dần dần suy thoái và cuối cùng biến mất ở miền Bắc Ấn Ðộ. Mỗi nhà tư tưởng chú trọng vào những đề tài khác nhau, nhưng khuynh hướng chung của đa số họ là trình bày một hệ thống triết lý nhất quán, bao gồm đạo đức học, tri thức học và siêu hình học. Phần lớn những đề tài mà các triết gia PG Ấn này viết là phát xuất trực tiếp từ những giáo lý được xem là của Sĩ-đạt-ta Cồ Ðàm
08/04/2013(Xem: 3305)
Khi Phật giáo (PG) du nhập vào Trung Hoa (TH) lần đầu tiên từ Ấn-độ và Trung Á thì những TH theo PG có khuynh hướng coi tôn giáo này là một phần hay một phái của Ðạo Giáo Hoàng Lão, một hình thức Ðạo Giáo bắt nguồn từ kinh sách và pháp thực hành được coi là của Hoàng Ðế và Lão Tử. Những người khác chấp nhận ít hơn tôn giáo “ngoại lai” xâm nhập từ các xứ Tây Phương “man rợ” này PG là xa lạ và là một sự thách thức nguy hiểm cho trật tự xã hội và đạo đức TH.
08/04/2013(Xem: 19020)
Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một người. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như khả năng “chinh phục đối tượng”.
08/04/2013(Xem: 15243)
Trimsika là luận văn cuối cùng của Bồ tát Vasubandhu. Bộ luận nầy gồm có ba mươi bài tụng, nên được dịch sang tiếng Trung Hoa là "Tam Thập Tụng", đây chính là nghĩa của Trimsika. Ngài Huyền Trang Pháp sư khi dịch nó ra Hán văn có thêm vào hai chữ "Duy Thức", gọi là "Duy Thức Tam Thập Tụng"; vì trong ba mươi bài tụng ấy Bồ tát Vasubandhu đã tóm thâu toàn vẹn tinh ba của Duy Thức Học.
08/04/2013(Xem: 17391)
Theo truyền thống của Phật giáo Nguyên thủy thì Tạng Vi Diệu Pháp (A tỳ Ðàm) được Ðức Phật thuyết vào hạ thứ bảy tại cung trời Ðạo lợi (Tàvatimsa) với tác ý trả hiếu cho thân mẫu.
08/04/2013(Xem: 8883)
Như Lai (Tathagata) một trong 10 hiệu của Phật “không từ đâu đến, không đi về đâu”, là tính thường trụ thường hằng của các pháp, như như bất động không sinh không diệt, không tới không lui, là bản thể, là thực tướng là pháp tánh của mọi sự vật. “Nếu lấy sắc để nhìn ta, lấy âm thanh để cầu ta, đó là kẻ hành tà đạo, chẳng thể thấy Như Lai” Như lai được hiểu là thực tướng của các pháp đó là vô ngã tướng không còn các tướng (Ngã, nhơn chúng sanh, thọ giả).
08/04/2013(Xem: 10529)
Bản dịch quyển "The Buddha and His Teachings -- Đức Phật và Phật Pháp" được tu chỉnh và bổ túc lần thứ ba theo bản Anh ngữ cuối cùng của Ngài Narada, xuất bản ...
08/04/2013(Xem: 14446)
Một Tôn Giáo Hiện Đại (nguyên tác Anh ngữ: "What is this Religion? - Tôn giáo này là gì ?", ấn hành tại Đài Loan vào năm 1992), là một trong mấy mươi tác phẩm...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]