Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

V. Chư Tổ sư Đông độ

12/03/201102:44(Xem: 4534)
V. Chư Tổ sư Đông độ

TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

V. Chư Tổ sư Đông độ

SÁU ĐỜI TỔ NỐI TRUYỀN Y BÁT

Đức Phật Thích-ca đản sanh vào năm 563 trước Công nguyên. Ngài truyền Chánh pháp cho Ma-ha Ca-diếp làm Tổ thứ nhất. Từ đó, có sự tiếp nối nhau giữa chư Tổ sư ở Tây thiên mà gìn giữ và truyền bá mối đạo.

Cho đến đời Tổ thứ hai mươi tám là Bồ-đề Đạt-ma, vị này theo lời phó chúc của Tổ đời hai mươi bảy, mang ánh sáng Phật pháp truyền sang Trung Hoa.

Mặc dù đạo Phật lúc bấy giờ đã được người Trung Hoa biết đến khá nhiều. Chính vua Lương Võ Đế cũng là một Phật tử mộ đạo. Nhưng giáo lý chân truyền chưa được ai truyền dạy, nên người học Phật chưa thể nắm được yếu chỉ của Phật pháp, chưa thể thực sự tìm được đến chỗ giải thoát.

Vị Tổ chân truyền đời thứ hai mươi tám của Ấn Độ đặt chân lên đất Trung Hoa năm 520 Dương lịch, và tịch ở nước ấy vào năm 529, tức là hoằng hóa ở Trung hoa được chín năm.

Bồ-đề Đạt-ma, theo lịch đại Tổ sư Tây Thiên, là Tổ đời thứ hai mươi tám, tức là vị Tổ sau rốt được chân truyền. Kể theo lịch đại Tổ sư Đông độ tiếp nối truyền y bát, thì ngài là vị Sơ Tổ. Và vị Tổ sư Đông độ sau rốt được truyền y bát là Tổ đời thứ sáu, Đại sư Huệ Năng, tịch diệt năm 713. Sau đời Lục Tổ Huệ Năng, Thiền tông chỉ truyền pháp, không còn lệ truyền y bát nữa.

Sáu đời Tổ sư ở Trung Hoa được kể ra như sau:

1. Bồ-đề Đạt-ma(菩提達磨)

2. Huệ Khả (慧可)

3. Tăng Xán (僧璨)

4. Đạo Tín (道信)

5. Hoằng Nhẫn (弘忍)

6. Huệ Năng (惠能)

1.

SƠ TỔ BỒ-ĐỀ ĐẠT-MA

初祖菩提達磨

Ngài là Tổ sư đời hai mươi tám ở Tây Thiên, và Tổ sư thứ nhất ở Đông độ. Ngài là hoàng tử thứ ba, con út vua Hương Chí nước Ca-xi ở miền Nam Ấn Độ, ngài đắc pháp do Tổ đời thứ hai mươi bảy Bát-nhã Đa-la phó truyền.

Sau khi hóa đạo ở Ấn Độ, ngài theo lời di ngôn của thầy sang Trung Hoa mà truyền pháp. Ngài đi theo đường biển, đến Quảng Đông, Trung Hoa vào năm 520. Vua Võ Đế nhà Lương ở kinh thành Kiến Khương là người rất sùng mộ Phật pháp, có thỉnh Tổ sư đến thuyết pháp. Nhưng vua chẳng lãnh hội được diệu pháp do Tổ truyền giảng.

Bấy giờ ở Trung Hoa người ta cũng thờ Phật trọng Tăng, nhưng chưa có người đắc đạo chân truyền giáo hóa, nên cách hiểu về Phật pháp còn nhiều sai lệch. Chính vua Lương Võ Đế là một người rất mộ đạo, nhưng cũng chưa hiểu đúng được Chánh pháp.

Tuy được gặp Tổ sư nhưng vua Lương Võ Đế và các tăng sĩ Phật giáo lúc bấy giờ ở đó không hội được ý Tổ.

Biết cơ duyên chưa đến, Tổ sư liền bỏ đi lên Tung sơn, vào một hang động vắng vẻ mà ngồi yên lặng đến chín năm. Người đời không hiểu, gọi ngài là “Thầy Bà-la-môn ngồi nhìn vách”.

Thuở ấy có một vị tăng tên là Thần Quang, là người học rộng biết nhiều, trí tuệ sâu rộng. Nghe chuyện Tổ sư ngồi ngó vách, Thần Quang biết là bậc siêu phàm, liền tìm đến ra mắt.

Thần Quang đến nơi, lễ bái nhiều lần, Tổ vẫn lặng thinh ngồi ngó vách, không để ý gì đến. Thần Quang tự nghĩ: “Người xưa cầu đạo không tiếc thân mạng. Nay ta phải tỏ lòng thành mới mong được hỏi đạo.” Thần Quang liền đứng trước cửa động suốt đêm không ngủ. Khi ấy trời giá lạnh, đến sáng tuyết rơi phủ đầy người, ngập lên quá đầu gối mà Thần Quang vẫn đứng yên chắp tay hướng về phía Tổ sư, nét mặt không hề thay đổi.

Tổ sư biết người thật lòng cầu đạo, liền quay ra hỏi:

“Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết lạnh, trong lòng muốn cầu chuyện gì vậy?”

“Đệ tử muốn cầu diệu đạo.”

Tổ sư nói:

“Diệu đạo của chư Phật phải trải qua rất nhiều khó khăn mới mong cầu được. Nay ngươi chỉ qua một đêm chịu lạnh mà muốn được diệu đạo hay sao?”

Thần Quang biết mình đã gặp được bậc chân truyền, quyết lòng cầu đạo, liền tự tay dùng dao bén cắt đứt cánh tay trái mà dâng lên trước mặt Tổ sư.

Tổ Bồ-đề Đạt-ma liền dạy rằng:

“Chư Phật cầu đạo đều vì pháp quên mình. Nay ngươi tự chặt tay cầu đạo, cũng có thể nói là có thành ý. Lòng ngươi có chỗ nào muốn hỏi, cứ hỏi đi.”

Thần Quang thưa:

“Tâm con chưa an, xin thầy truyền cho pháp an tâm.”

Tổ sư nói:

“Ngươi hãy đưa tâm đây, ta sẽ an tâm cho.”

Thần Quang thưa:

“Con tìm tâm không thể được.”

Tổ nói:

“Ta an tâm cho ngươi rồi đó.”

Thần Quang nghe xong đại ngộ. Tổ sư liền đổi tên cho là Huệ Khả.

Về sau, Tổ Bồ-đề Đạt-ma truyền y bát cho Huệ Khả. Ngài đến Trung Hoa là Sơ Tổ, nên Huệ Khả nối tiếp theo ngài mà làm Nhị Tổ của Thiền tông Trung Hoa. Sơ tổ có bài kệ truyền pháp rằng:



Ngô bổn lai tư độ,

Truyền Pháp cứu mê tình;

Nhất Hoa khai Ngũ Diệp.

Kết quả tự nhiên thành.

吾本來茲土

傳法救迷情

一華開五葉

結果自然成

Dịch nghĩa

Vốn ta lại đất này,

Truyền pháp cứu mê tình;

Một hoa trổ năm cánh,

Kết quả tự nhiên thành.



Sau khi truyền pháp cho Huệ Khả rồi, ngài ngồi an nhiên mà tịch. Vua nước Ngụy truyền đem kim quang đến khâm liệm thân ngài và an táng tại núi Hùng Nhĩ.

Ba năm sau, có một người tên Châu Vân, được vua nước Ngụy phái đi sứ về, gặp Tổ Đạt-ma đi bộ trên đường núi, quảy một chiếc dép nơi đầu gậy. Vân hỏi rằng: “Thầy đi về đâu?” Tổ đáp: “Đi về Tây Thiên.”

Vân lấy làm lạ, khi về đến triều, đem việc ấy trình lên vua. Ngụy đế bèn ra lệnh quật mồ của Tổ mà xem. Chỉ thấy lưu lại trong quan tài một chiếc dép mà thôi. Vua ra lệnh lấy chiếc dép ấy lên, để thờ cúng tại chùa Thiếu Lâm.

Vì chuyện ấy, nên trong các tranh tượng của Tổ Đạt-ma sau này, đều thấy ngài quảy một chiếc dép trên đầu gậy mà đi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2011(Xem: 32164)
Từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 6 năm 2007 này, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ viếng thăm Úc Châu, đây là chuyến thăm Úc lần thứ năm của Ngài để giảng dạy Phật Pháp. Mọi người đang trông đợi sự xuất hiện của ngài. Bốn lần viếng thăm Úc trước đây đã diễn ra vào các năm 1982, 1992, 1996, 2002, đặc biệt trong lần viếng thăm và hoằng pháp lần thứ tư năm 2002, đã có trên 110. 000 người trên khắp các thủ phủ như Melbourne, Geelong, Sydney, và Canberra đến lắng nghe ngài thuyết giảng để thay đổi và thăng hoa đời sống tâm linh của mình.
05/01/2011(Xem: 10485)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
04/01/2011(Xem: 42466)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
04/01/2011(Xem: 4385)
Nói đến tiến trình phát triển Phật giáo là nói đến lộ trình diễntiến của Phật giáo từ lúc Phật nói bài pháp đầu tiên sau khi thành đạo cho đến bây giờ, suốt thời gian trên hai mươi lăm thế kỷ; là nói đến nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên cho nhóm Kiều-trần-như ở vườn Lộc Uyển cho đến bây giờ, trải qua một không gian rộng lớn từ lưu vực sông Hằng ở vùng Ấn Độ, đến miền Tây, vượt khỏi biên thùy Ấn Độ, đến Hy Lạp, Ai Cập, qua những sa mạc mênh mông, những dãy núi cao vòi vọi, những đồng bằng bát ngát, từ Trung Á đến Trung Quốc, Việt Nam, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật Bản, xuống Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cao Miên, Mã Lai, vượt Địa Trung Hải đến Âu châu, vượt Thái Bình Dương đến Úc châu, Mỹ Quốc. vượt Ấn Độ Dương đến Phi châu, vượt Đại Tây Dương đến Trung Mỹ, Nam Mỹ.
01/01/2011(Xem: 9313)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
31/12/2010(Xem: 6388)
Tư Tưởng Chính Trị Trong Triết Học Khổng Giáo _ Trần Quang Thuận Thư Lâm Ấn Quán Thư xuất bản năm 1961 Sài Gòn
29/12/2010(Xem: 14198)
"Lược sử thời gian" (A Brief History of Time), một cuốn sách tuyệt diệu, được viết bởi một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất của thời đại chúng ta: nhà toán học và vật lý lý thuyết người Anh Stephen Hawking.
27/12/2010(Xem: 3737)
Vào cuối quyển sách của ông, Sự Tỉnh Thức của Phương Tây, ông đã trích dẫn lời của Thiền Sư Nhất- Hạnh nói rằng “hình thức của Đạo Phật phải thay đổi nhưng căn bản vẫn duy trì.” Sau khi theo dấu Phật Pháp qua nhiều quốc độ và sự hiện thân của Đạo Phật, điều gì ông tin tưởng là cốt lõi của Đạo Phật?
24/12/2010(Xem: 17073)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
20/12/2010(Xem: 16303)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567