Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. Tổ Bà-tu-bàn-đầu

12/03/201102:44(Xem: 4438)
20. Tổ Bà-tu-bàn-đầu

TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

V. Chư Tổ sư Tây Thiên

20.

TỔ BÀ-TU-BÀN-ĐẦU

婆修盤頭祖

Bà-tu-bàn-đầu, cũng phiên âm là Phật-tô-bàn-độ, thường gọi theo những tên khác nữa là Thiên Thân hay Bồ-tát Thế Thân, là Tổ sư đời thứ hai mươi mốt.

Ngài sanh vào đầu thế kỷ thứ năm Dương lịch, nơi xứ Càn-đà-la, tại thành Purushapura là nơi rất thạnh về Phật pháp. Anh ruột ngài là A-tăng-già, cũng gọi Bồ-tát Vô Trước. Lúc ban đầu, cả hai anh em đều theo học giáo lý Tiểu thừa, nhưng về sau thấy Tiểu thừa không thích hợp với mình, và nhận ra được sự cao siêu, thâm diệu của Đại thừa, hai ngài bèn chuyển sang tu theo Đại thừa.

Bồ-tát Vô Trước nhập Đại thừa trước, sau mới hóa độ cho em cùng vào theo.

Ngài Thế Thân lúc nhỏ có sang xứ Khắc-thập-mễ-nhĩ, thọ giáo một học giả thông thái của Tiểu thừa tên là Tăng Hiền. Ngài học trong mấy năm, và sau khi đã thành một vị Pháp sư, ngài qua xứ Oudh ở một thời gian. Bấy giờ, ngài theo phái Tát-bà-đa-bộ của Tiểu thừa, thường dùng tài biện luận của mình mà kích bác triết lý Du-già của Đại thừa một cách hùng hồn lắm.

Ngài Vô Trước lúc ấy đã tin theo Đại thừa rồi, có ý muốn hóa độ cho em. Ngài hẹn với Thế Thân đến một ngôi chùa ở xứ A-du-đà. Khi Thế Thân đến, vị trụ trì liền mời tiếp rất tử tế và cùng trò chuyện mấy việc tầm thường qua loa. Rồi sau khi ăn, ngài đưa Thế Thân lên một căn phòng cất trên đồi cao, nhìn ngay xuống sông Hằng. Đêm ấy nhằm mùa thu, trời thanh cảnh tốt, không có một cụm mây. Đứng trên nhìn xuống, thấy mấy cây da, mấy cây dừa đưa cành, rọi bóng xuống hồ sen, nước sông đầy tràn, bóng trăng soi sáng cả mặt sông. Có một tỳ-kheo đứng nơi cửa sổ phòng bên dưới, giả vờ như vô tình ngâm nga một bài kệ hàm chứa ý nghĩa rất cao siêu. Ngài Thế Thân vừa nghe liền chú ý, cảm nhận ngay được ý nghĩa bài kệ, sau lại càng hiểu sâu hơn, bừng ngộ ra ý nghĩa đại thừa. Ngài cảm động đến chảy nước mắt. Bấy giờ, ngài mới thấy giáo lý Tiểu thừa là nhỏ hẹp, hạn cuộc. Nhớ lại lúc trước đã từng hết lòng công kích giáo lý Đại thừa, ngài lấy làm ân hận, định tự tay cắt lưỡi mình. Khi ấy ngài Vô Trước liền xuất hiện, cản lại và nói rằng: “Không nên cắt lưỡi, từ đây nó sẽ giúp em rộng truyền chân lý vậy.”

Quả thật, sau khi theo giáo lý Đại thừa, ngài Thế Thân trở thành một bậc học giả uyên thâm, thông thái hơn hết ở Ấn Độ. Ngài đến làm giảng sư tại viện Na-lan-đà, cùng chung sức với ngài Vô Trước soạn nhiều kinh sách rất giá trị. Viện Na-lan-đà là trường Phật học lớn hơn hết ở Ấn độ, rèn đúc các vị cao tăng, và chư vị Tổ sư nối nhau mà truyền Đạo, phần nhiều đều giảng dạy tại trường ấy. Đệ tử của hai ngài Vô Trước và Thế Thân vẫn nối tiếp nhau mà làm thượng tọa tại Na-lan-đà. Khi ngài Huyền Trang từ Trung Hoa sang Ấn Độ vào năm 633, có đến viện Na-lan-đà này học đạo với luận sư Giới Hiền. Ngài Giới Hiền chính là đệ tử của hai vị Vô Trước và Thế Thân, lúc ấy đã hơn trăm tuổi, nhưng vì một điềm mộng báo trước việc ngài Huyền Trang từ Trung Hoa sang cầu pháp, nên ngài vẫn chưa viên tịch, chính là muốn nán lại để truyền dạy cho vị tăng sĩ người Trung Hoa này.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài Thế Thân để lại là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá-luận. Câu-xá tông cho rằng bộ luận này là do đức Di-lặc truyền dạy cho ngài. Ngài còn soạn rất nhiều sách khác nữa, trong mỗi quyển, đều có phần giảng giải về giáo lý Đại thừa. Quyển Duy thức luận của Pháp tướng tông cũng do ngài soạn.



LÀM THẾ NÀO ĐƯỢC BỒ ĐỀ TÂM?

… Chư Phật trong mười phương, ba đời, khi mới bước chân lên đường đạo để đến cõi toàn giác, đều không tránh khỏi những chỗ lầm lỗi như ta bây giờ. Nhưng đến sau, các ngài đều được Giác ngộ hoàn toàn và thành những Đấng cao thượng hơn hết trong chúng sanh.

Chư Phật nhờ dùng hết nghị lực trong tâm nên mới có thể đạt được sự toàn giác. Nếu các ngài có thể đạt được sự toàn giác, thì ta sao chúng lại không thể được?

Trong khi chư Phật đưa đuốc huệ lên cao để dắt dẫn chúng sanh ra khỏi nơi hắc ám vô minh và giữ lòng từ bi hỷ xả, thì các ngài cam chịu biết bao khổ hạnh, rồi mới thoát khỏi nghiệp chướng trong Tam giới. Bây giờ ta cứ bước lần theo chân Phật, rồi đây ta cũng sẽ được giải thoát vậy.

Chư Phật đều lướt qua biển khổ não sanh tử, chúng ta đây là những bậc trí giả, ta cũng có thể lướt qua biển trầm luân, sao lại không được?

Chư Phật dùng sức mạnh trong nội tâm mà dứt bỏ những của cải, thân danh, hy sinh cả mạng sống để đạt đến chỗ khoát nhiên đại ngộ, thấy biết mọi việc. Ta đây cũng có thể noi các gương vẻ vang ấy vậy, để cùng được khoát nhiên đại ngộ như các ngài…

Đời sống xác thịt của thân Ngũ uẩn và Tứ đại này của ta, đã phạm biết bao nhiêu việc xấu. Ta cần phải dứt bỏ nó đi. Đời sống bằng xác thịt với chín lỗ đưa ra những món uế trược tanh hôi, ta cần phải dứt bỏ nó đi. Đời sống bằng xác thịt chất chứa những sự giận hờn, tham lam, ngạo mạn và biết bao tánh xấu khác. Nó làm cho tâm ta bỏ việc lành theo việc ác, ta cần phải dứt bỏ nó đi. Cái mạng sống bằng xác thịt của ta tựa hồ như một chút hơi, một bọt nước, nó ngày càng mòn mỏi đi dần. Ta quí gì nó mà chẳng bỏ nó đi? Cái xác thịt của ta chìm đắm trong cõi dốt nát vô minh, nó cứ gây nghiệp xấu làm cho ta quanh lộn mãi trong sáu đường luân hồi.

… Các chúng sanh đều làm nô lệ cho sự vô minh. Họ ham mê theo tánh ngu dại và kiêu căng của họ, nên bị đau khổ rất nặng nề. Không tin theo luật nghiệp báo, họ cứ làm ác thêm hoài. Tách xa đường ngay nẻo chánh, họ cứ theo đạo tà. Say đắm trong vòng tình dục, họ cứ chìm mất trong bốn biển tội ác.

Họ bị các sự đau khổ hành hạ. Họ sợ mãi những nỗi sanh, lão, bệnh, tử. Cái sợ đó đâu có đỡ cho họ chút nào, vì họ không tìm theo đường giải thoát. Họ những đau ốm mỏi mòn, vì sầu ưu, xao xuyến, mà nào họ có chừa bỏ những việc gian ác đâu. Tham muốn được gần gủi với kẻ yêu thương và lấy làm sợ những cuộc biệt ly, họ nào có hiểu cuộc sống là giả dối, tạm bợ. Cuộc sống giả ấy há đáng để ý sao? Họ muốn tránh những sự tham lam, sân hận, si mê và khổ não, nhưng họ cứ gieo thêm những sự ấy mãi mãi…

Chư Phật Như Lai hạnh đức đủ đầy, có những vẻ nghiêm trang đoan chánh, khiến cho những kẻ trông thấy liền tưởng việc hiền lành mà lánh xa nạn khổ. Pháp thân của chư Phật và trường tồn không hoại mất, thanh bạch, không bận những nỗi luyến ái thấp hèn. Chư Phật Như Lai đều hiền đức, thanh tịnh, có đủ trí huệ và thoát khỏi trần tục. Tâm trí các ngài không phải xao xuyến vì những lý thuyết thành kiến, mà là những ngôi đền chứa những đức quí hóa tinh sạch. Các ngài có đến mười lực thần trí, bốn đức oai hùng chẳng sợ. Các ngài đại từ bi và có đủ ba phép thiền định. Các ngài thấy biết mọi việc, và lòng thương những sanh vật đau khổ tràn trề khiến cho những chúng sanh lầm lạc đều trở lại đường ngay.

Bài thuyết pháp của Bồ-tát Thế Thân


PHÓ PHÁP VÀ TRUYỀN KỆ

Theo quyển “Phật Tổ chánh tông Đạo ảnh”, khi Tổ sư đời thứ hai mươi mốt, Bà-tu-bàn-đầu vào đến nước Ma-đề của vua Thường Tự Tại, thì vua thỉnh vào đền. Tổ nói rằng: “Đức Phật có nói trước rằng: Chưa được một ngàn năm sau khi ta nhập Niết-bàn, sẽ có hai vị đại sĩ ra đời ở xứ Na-đề, làm lợi lạc cho chúng sanh nhiều vô kể. Hai người ấy, một người là Ma-noa-la, con thứ của bệ hạ. Người thứ hai là ta đây, tuy đức bạc nhưng cũng đang nắm giữ giềng mối Chánh pháp mà hóa độ chúng sanh.”

Vua nghe Tổ sư nói vậy, khẩn khoản cầu xin cho hoàng tử xuất gia. Tổ Bà-tu-bàn-đầu thâu nhận hoàng tử làm đệ tử. Về sau, truyền pháp lại cho Ma-noa-la nối tiếp làm Tổ sư thứ hai mươi hai. Nhân đó, ngài có truyền cho bài kệ dưới đây:



Bào, huyễn đồng vô ngại,

Như hà bất liễu ngộ?

Đạt pháp tại kỳ trung,

Phi kim diệc phi cổ.

泡幻同無礙

如何不了悟

達法在其中

非今亦非古。

Dịch nghĩa

Bào với huyễn: vô ngại mà,

Tại sao không hiểu rõ ra lẽ này?

Một khi đạt pháp nơi đây,

Chẳng xưa lại cũng chẳng nay nữa là.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/06/2011(Xem: 3494)
1.- HỎI:Thưa giáo sư, tại sao giáo Sư quyết định nghiên cứu Đạo Phật? ĐÁP:Tôi luôn luôn thích thú với Đạo Phật từ lúc rất trẻ, đặc biệt đối với truyền thống Tây Tạng. Khi tôi học hỏi nhiều hơn về điều này, tôi thấy rằng Đạo Phật đã cho tôi những trả lời tuyệt vời nhất đến những vấn đề mà tôi có về việc những cảm xúc và tâm thức hoạt động như thế nào. Giáo huấn nhà Phật đã thể hiện trọn vẹn ý nghĩa đối với tôi. 2.- HỎI:Giáo Sư quyết định nghiên cứu Đạo Phật vào lúc nào? ĐÁP:Mặc dù tôi đã đọc sách vở về Đạo Phật từ năm tôi vừa 14 tuổi, nhưng tôi đã quyết định học hỏi chính thức tại Đại Học vào năm 1962, khi tôi vừa 17 tuổi.
23/06/2011(Xem: 15153)
BỘ SÁCH PHẬT HỌC ỨNG DỤNG Hồng Quang sưu tầm và biên soạn Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh 2011 GIỚI THIỆU BỘ SÁCH "PHẬT HỌC ỨNG DỤNG" Nguyên Định MỤC LỤC TỔNG QUÁT Cuốn 1: Nghi lễ, Thiền và Tịnh độ Cuốn 2: Giáo lý căn bản Cuốn 3: Bước đầu học đạo Cuốn 4: Bảy tôn giáo ngoài Phật giáo Cuốn 5: Áp dụng lời Phật dạy vào cuộc sống Cuốn 6: Dưỡng sinh Cuốn 7: Khoa học và Phật giáo Cuốn 8: Những vấn đề kiếp sau Cuốn 9: Đạo Phật trong vùng ruộng lúa Cuốn 10: Nghệ thuật diễn giảng và tầm quan trọng của văn nghệ.
18/06/2011(Xem: 3280)
Trong khoảng 1000 năm tồn tại và phát triển, Phật giáo dung hợp văn hoá bản địa, góp phần vào sự phát triển chung của dân tộc. Từ nền tảng này, đã tạo ra một bước chuyển hình thành triều đại Lý - Trần thịnh vượng phú cường kéo dài khoảng 400 năm. Đó cũng là thời hoàng kim của Phật giáo Việt Nam.
15/06/2011(Xem: 7785)
Tôi thấu hiểu Đức Phật Nguyên Sơ, cũng được biết như Đức Phật Phổ Hiền, là thực tại tối hậu, thế giới của Pháp Thân – không gian của tính không – nơi mà tất cả mọi hiện tượng, thanh tịnh và nhiễm ô, là hòa tan. Đây là sự giải thích được dạy bởi Kinh điển và Mật điển. Tuy nhiên, trong phạm vi câu hỏi này, chỉ truyền thống mật tông tantra giải thích Pháp Thân trong dạng thức của Linh quang bản nhiên, (hay tịnh quang bản nhiên), bản chất tối hậu của tâm; điều này dường như bao hàm tất cả mọi hiện tượng, luân hồi và niết bàn, sinh khởi từ cội nguồn trong suốt và rực rở này.
10/06/2011(Xem: 7075)
Tất cả những ai đã quy y có một cảm giác gần gũi và tin tưởng đối với Tam Bảo – Đức Phật, Giáo Pháp (lời dạy của Ngài), và Tăng Già, cộng đồng tâm linh của tăng ni. Đây là nhân tố quyết định quý vị có phải là một Phật tử hay không. Nếu quý vị quy y Tam Bảo, quý vị là Phật tử; còn nếu khác đi thì không phải. Chúng ta có thể quy y ở nhiều trình độ khác nhau của sự thậm thâm, tùy thuộc trên mức độ thông tuệ của chúng ta. ..Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nói và tư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
30/05/2011(Xem: 18558)
Phật Và Thánh Chúng The Buddha and His Sacred Disciples Chương 1: Đức Phật—The Buddha Chương 2: Đạo Phật—Buddhism Chương 3: Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan Phật Giáo Buddhist Points of view on Human Life and Buddhist Cosmology Chương 4: Chuyển Pháp Luân và Năm Đệ Tử Đầu Tiên Turning The Wheel of Dharma and The First Five Disciples Chương 5: Kết Tập Kinh Điển—Buddhist Councils Chương 6: Tam Bảo và Tam Tạng Kinh Điển Triple Jewels and Three Buddhist Canon Baskets Chương 7: Kinh và Những Kinh Quan Trọng—Luật—Luận Sutras and Important Sutras-Rules-Commentaries Chương 8: Đạo và Trung Đạo—Path and Middle Path Chương 9: Vi Diệu Pháp—Abhidharma Chương 10: Tam Thời Pháp—Three Periods of The Buddha’s Teachings Chương 11: Thân Quyến—The Buddha’s Relatives Chương 12: Thập Đại Đệ Tử—Ten Great Disciples Chương 13: Những Đệ Tử Nổi Tiếng Khác—Other Famous Disciples Chương 14: Giáo Đoàn Tăng và Giáo Đoàn Ni—Monk and Nun Orders Chương 15: Tứ Động Tâm—Four Buddhis
12/05/2011(Xem: 5805)
Nhiều lý thuyết siêu hình của Phật giáo tỏ ra xa vời, khó hiểu và khó tiếp cận đối với độc giả trung bình chưa được chuẩn bị để tiếp nhận chúng. Đó là vì chúng đòi hỏi một sự thông hiểu sâu sắc và lâu dài các định luật của thế giới tâm linh và tiết nhịp của đời sống tinh thần, chưa nói đến khả năng hãn hữu cần có để duy trì sự suy nghiệm khô khan. Thêm vào đó, các nhà tư tưởng Phật giáo lại tạo nên một số giả định ngầm mà các triết gia Tây phương hiện đại đã minh nhiên bác bỏ. Thứ nhất, chung cho hầu hết mọi người Ấn độ bình thường*, khác với người châu Âu có tính ‘khoa học’, tư tưởng lấy những kinh nghiệm du-già làm nguyên vật liệu cho phản tỉnh triết học.
11/05/2011(Xem: 4734)
Trong cuộc sống thường nhật của con người, ngôn ngữ đóng vai trò vô cùng trọng yếu. Không có ngôn ngữ con người không thể diễn đạt được bất cứ điều gì, từ những cảm quan thường nghiệm đến những tư duy siêu việt.
01/05/2011(Xem: 5997)
Tất cả các tôn giáo, nói chung, đều có động lực từ lòng từ bi và nhân ái. Mặc dù các tôn giáo thường có sự khác biệt lớn trên bình diện triết học, nhưng mục đích cơ bản cũng đại khái giống nhau, đó là mang đến sự tiến triển tốt đẹp. Dĩ nhiên, mỗi tín ngưỡng có những phương pháp đặc thù. Mặc dù các nền văn hóa dĩ nhiên khác nhau, nhưng chúng ta đang ngày càng đến gần nhau hơn, vì thế giới ngày càng thu nhỏ với sự tiến triển của ngành thông tin, tạo dịp tốt để chúng ta học hỏi lẫn nhau. Tôi cảm thấy điều này rất hữu ích.
04/04/2011(Xem: 5718)
François Jullien, giáo sư trường Đại học Denis Diderot Paris VII, giám đốc Viện tư tưởng hiện đại và Viện Marcel Granet của trường này, là một nhà triết học nổi bật hiện nay ở Pháp, và cả ở phương Tây nói chung. Các tác phẩm của ông rất phong phú, chứng tỏ một sức sáng tạo rất dồi dào, và cũng thật độc đáo. Trong nhiều năm qua, ông chăm chú nghiên cứu về minh triết phương Đông, hoặc nói cho thật đúng hơn, ông làm một cuộc đối chiếu, ngày càng sâu sắc, tinh vi, triệt để giữa minh triết phương Đông với triết học phương Tây, - không chỉ để cố gắng thấu hiểu đến thực chất của nền minh triết ấy
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567