Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Sứ giả thần chết

12/03/201102:44(Xem: 3653)
6. Sứ giả thần chết

TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

I. Những chuyện tích triết lý

6. SỨ GIẢ THẦN CHẾT

KINH TĂNG NHẤT, TẬP ANGUTTARA-NIKYA

Phật dạy chư tỳ-kheo rằng:

Này chư tỳ-kheo, cõi chết có ba vị sứ giả đem tin. Ba vị ấy là ai vậy?

Này chư tỳ-kheo, tỷ như có người dùng thân thể mà làm việc ác, dùng lời nói mà phạm điều ác và dùng tâm ý mình mà suy tính việc ác. Người ấy phạm tội như vậy, sau khi cơ thể tan rã, sau khi đã chết, phải đi đến chỗ trừng trị, chỗ hành khổ, chỗ nạn nguy, chỗ địa ngục.

Bấy giờ, những kẻ giữ ngục nắm lấy tay người ấy, lôi kéo đến chỗ Diêm vương, tâu rằng:

“Tâu bệ hạ, người này không xử tròn phận sự với bè bạn, cha mẹ, các thầy sa-môn, không thờ phụng tổ tiên trong thân tộc... Xin bệ hạ xử phạt.”

Này chư tỳ-kheo, Diêm vương bèn gọi người ấy đến trước mặt, gặn hỏi về vị sứ giả báo tin chết trước nhất:

“Này người kia, ngươi có thấy vị sứ giả báo tin chết trước nhất hiện ra giữa loài người chăng?”

Người ấy đáp:

“Tâu Bệ hạ, tôi không thấy.”

Này chư Tỳ-kheo, Diêm vương lại hỏi người ấy rằng:

“Này người kia, ngươi có thấy trong loài người, có người đàn bà nào hay đàn ông nào đến tám mươi, chín mươi hay một trăm tuổi, lưng khòm, gối mỏi, mình phải cúi xuống, tay nương gậy, đi đứng run rẩy, khốn cùng tiều tụy, tóc bạc răng thưa, trán nhăn da sạm. Có như vậy chăng?”

Người ấy đáp:

“Tâu bệ hạ, tôi có thấy.”

“Này người kia, ngươi là người có tri thức, vậy ngươi có bao giờ suy nghĩ như thế này chăng: Kìa cái già nó luôn chực giết hại tôi cũng như tất cả mọi người, không ai tránh khỏi. Nó cứ đến, tôi sẽ dùng thân thể, lời nói và tâm ý tôi mà làm việc tốt đẹp, việc thiện. Như vậy tôi chẳng cần phải lo sợ nó.”

Người kia đáp:

“Tâu Bệ hạ, tôi chưa từng nghĩ được như thế.”

Diêm vương lại hỏi rằng:

“Này ngươi, bởi không suy nghĩ được như thế, nên ngươi không chịu làm điều tốt, điều thiện bằng thân thể, lời nói và tâm ý. Nay xét đúng lẽ, ngươi phải chịu lấy sự khổ vì sự ngu muội của ngươi. Điều ấy không phải lỗi tại cha mẹ ngươi, cũng không phải tại anh chị ngươi, cũng không phải tại bè bạn, bà con của ngươi, cũng không phải tại thần thánh, các thầy sa-môn hay các bà-la-môn. Ấy là tại ngươi, chỉ một mình ngươi tự làm việc ác, và cũng chỉ có một mình ngươi chịu lấy tội báo mà thôi.”

Này chư tỳ-kheo, khi Diêm vương đã gạn hỏi về vị sứ giả thứ nhất đem tin chết rồi, ngài bèn hỏi tiếp về vị sứ giả thứ nhì.

“Này người kia, ngươi có thấy vị sứ giả thứ nhì đem tin chết hiện ra giữa loài người chăng?”

Người ấy đáp:

“Tâu bệ hạ, tôi không thấy.”

Diêm vương lại hỏi rằng:

“Này người kia, ngươi có thấy trong loài người, có người đàn bà hoặc đàn ông nào bệnh hoạn, khổ não, rên xiết, thân thể dơ nhớp tanh hôi, lăn lộn mãi, khi ngồi phải có người vịn, khi nằm phải có người đỡ. Có như vậy chăng?

Người ấy đáp:

“Tâu bệ hạ, tôi có thấy.”

Diêm vương nói:

“Này người kia, ngươi là người có tri thức, vậy ngươi có bao giờ suy nghĩ như thế này chăng: Kìa sự bệnh khổ nó luôn chực giết hại tôi cũng như tất cả mọi người, không ai tránh khỏi. Nó cứ đến, tôi sẽ dùng thân thể, lời nói và tâm ý tôi mà làm việc tốt đẹp, việc thiện. Như vậy tôi chẳng cần phải lo sợ nó.”

Người kia đáp:

“Tâu Bệ hạ, tôi chưa từng nghĩ được như thế.”

Diêm vương lại hỏi rằng:

“Này ngươi, bởi không suy nghĩ được như thế, nên ngươi không chịu làm điều tốt, điều thiện bằng thân thể, lời nói và tâm ý. Nay xét đúng lẽ, ngươi phải chịu lấy sự khổ vì sự ngu muội của ngươi. Điều ấy không phải lỗi tại cha mẹ ngươi, cũng không phải tại anh chị ngươi, cũng không phải tại bè bạn, bà con của ngươi, cũng không phải tại thần thánh, các thầy sa-môn hay các bà-la-môn. Ấy là tại ngươi, chỉ một mình ngươi tự làm việc ác, và cũng chỉ có một mình ngươi chịu lấy tội báo mà thôi.”

Này chư tỳ-kheo, khi Diêm vương đã gạn hỏi về vị sứ giả thứ nhì đem tin chết rồi, ngài bèn hỏi tiếp về vị sứ giả thứ ba.

“Này ngươi, ngươi có thấy vị sứ giả thứ ba đem tin chết hiện ra giữa loài người không?”

Người ấy đáp:

“Tâu bệ hạ, tôi không thấy.”

Này chư Tỳ-kheo, Diêm vương lại hỏi người ấy rằng:

“Này người kia, ngươi có thấy trong loài người, có người đàn bà hay đàn ông nào đã chết một ngày, hoặc hai ngày, thân thể sình lên, đen nám, hôi thối. Có như vậy chăng?”

Người ấy đáp:

“Tâu bệ hạ, tôi có thấy.”

“Này người kia, ngươi là người có tri thức, vậy ngươi có bao giờ suy nghĩ như thế này: Kìa cái chết nó luôn chực giết hại tôi cũng như tất cả mọi người, không ai tránh khỏi. Nó cứ đến, tôi sẽ dùng thân thể, lời nói và tâm ý tôi mà làm việc tốt đẹp, việc thiện. Như vậy tôi chẳng cần phải lo sợ nó.”

Người kia đáp:

“Tâu Bệ hạ, tôi chưa từng nghĩ được như thế.”

Diêm vương lại hỏi rằng:

“Này ngươi, bởi không suy nghĩ được như thế, nên ngươi không chịu làm điều tốt, điều thiện bằng thân thể, lời nói và tâm ý. Nay xét đúng lẽ, ngươi phải chịu lấy sự khổ vì sự ngu muội của ngươi. Điều ấy không phải lỗi tại cha mẹ ngươi, cũng không phải tại anh chị ngươi, cũng không phải tại bè bạn, bà con của ngươi, cũng không phải tại thần thánh, các thầy sa-môn hay các bà-la-môn. Ấy là tại ngươi, chỉ một mình ngươi tự làm việc ác, và cũng chỉ có một mình ngươi chịu lấy tội báo mà thôi.”

Này chư tỳ-kheo, khi Diêm vương đã gạn hỏi về ba vị sứ giả đem tin chết rồi, thì ngài không nói nữa.

Liền đó, bọn quỷ đem người ấy ra mà hành hình.



Lời bình

Ở đời, ta thường có rất nhiều dịp nhìn thấy cái già, cái bệnh, cái chết, mang đến cho loài người những đau đớn, khổ sở. Ở giữa cảnh ấy, nếu ta không giữ mình cho thanh cao, làm việc chánh đáng thì ta thường bị ba cái khổ ấy, ba vị thần ấy hành hạ ta, rồi đến lúc lâm chung, nghiệp lực lại dắt dẫn ta trải qua nhiều sự đau đớn khác nữa.

Vậy ở đời, ta hãy nên sống cho thanh cao, trong sạch, tránh dữ làm lành, cứu giúp người cơ khổ. Được vậy thì chẳng những trong lúc sống ta dễ tránh khỏi các nỗi khổ về sự lo lắng những nỗi già, bệnh, chết, mà đến khi ta từ giã cõi này thì cũng được sanh đến những nơi an nhàn, vui vẻ khác.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/03/2017(Xem: 8009)
Do vì đặc thù, cho nên bảy hạng đệ tử Phật (Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Sa di, Sa di ni, Thích xoa Ma na, Ưu Bà Tắt, Ưu Bà Di) từ trong thời Phật còn tại thế và hôm nay, ai cũng phải có tâm từ bi là một quy luật ắt phải có sau khi quay về Đạo Phật (Quy y tam bảo) trở thành Phật tử xuất gia. Được có tâm từ bi, là phải học và thực tập Phật Pháp. Dù là những oanh vũ nam, oanh vũ nữ trong tập thể GĐPT, đều phải học đạo lý từ bi và thực tập từ bi, được thấy ở những câu: em thương người và vật, em kính mến cha, mẹ và thuận thảo với anh chi, em.
01/02/2017(Xem: 4136)
Một số tư tưởng Phật học sau đây cùng nói lên nghĩa của Ý Giáo : Ý tưởng mong muốn đem giáo Pháp giải thoát của Phật ra, giảng dạy cho mọi người được biết mà tu tập. Tâm thông đạt mọi khế lý, giáo nghĩa Phật pháp. Tự mình làm thầy lấy mình để sửa tâm. Tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hành giả vào đạo Phật để tìm con đường giải thoát
29/01/2017(Xem: 9180)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 24452)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13280)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 8548)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 6449)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 4660)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 10969)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 11889)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567