Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài nét về Tâm lý học phổ thông và Tâm lý học Phật giáo.

08/04/201318:19(Xem: 19783)
Vài nét về Tâm lý học phổ thông và Tâm lý học Phật giáo.

thich nu huong nhu 4

Vài nét về Tâm lý học phổ thông

và Tâm lý học Phật giáo

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

NS Thích Nữ Hương Nhũ

---o0o---

LỜI NÓI ĐẦU

Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một người. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như khả năng “chinh phục đối tượng”. Thực ra tâm lý kh6ng chỉ là ý muốn nhu cầu, thị hiếu và cách ứng xử của mọi người, mà nó còn bao hàm vô vàn các hiện tượng khác nữa. Tâm lý con người luôn gắn liền với từng hành vi cử chỉ. Bất cứ một lời nói cử chỉ hay hành động nào của con người từ đơn giản đến phức tạp nhất cũng đều có mặt tâm lý cả.

Theo sách tâm lý dùng trong trường Sư Phạm đã khẳng định : “Tâm lý là đời sống tinh thần của con người”..Các nhà tâm lý học luôn luôn có ý định tìm hiểu cái “đời sống tinh thần” ấy qua các công trình nghiên cứu và trắc đạt. “Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các ngành Tâm lý học tin tưởng vào các kết quả thực nghiệm về tâm lý con người nhằm quan tâm mọi vấn đề trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ của thế gian.

Tâm lý học Phật Giáo có một sự liên hệ chặt chẽ với tâm lý học phổ thông qua sự phân tích các vấn đề tâm thức vô cùng tinh tế. Nhưng niềm ưu tư của Phật Giáo là chữa bệnh hơn là phân tích. Điểm trọng yếu là kết quả thiết thực đối với con người chứ không phải chỉ suy cứu suông có tính cách triết học. Tâm lý học Phật Giáo được xây dựng trên chân lý vĩnh hằng của Dukkha, một trạng thái bất toại nguyện của chúng sanh hữu tình mà Đức Phật đã tuyên bố:

“Chỉ có một điều, Như Lai dạy, đau khổ và chấm dứt đau khổ phải đạt đến “Như vậy, Tâm lý học Phật Giáo cũng không ngoài mục đích diệt khổ cho con người. Đức Phật đặt nặng sự chú ý vào tâm và những hiện tượng tâm linh là vì đời sống nội tâm có một vai trò quyết định làm phát khởi hành động của con người. An lạc hay đau khổ đều do cái tâm mà thôi. Tâm lý học Phật Giáo hướng dẫn ta vào đường lối phân biệt và khảo sát nhằm khuyến khích mỗi người tự phát triển năng lực và phẩm chất nội tâm.

Tìm hiểu Tâm lý học phổ thông và Tâm lý học Phật Giáo là hấp dẫn và hữu ích. Dù người viết chưa nghiên cứu một cách tường tận các vấn đề tâm thức cũng như chưa có sự chứng đạt tâm linh nào để có thể thấy sâu vào bên trong những sinh hoạt nội tâm bằng trí tuệ minh sát, nhưng với tinh thần của một sinh viên tập làm một đề tài khoa học người viết quyết định chọn vấn đề Tâm lý học trong khảo luận tốt nghiệp này.

Bài viết sẽ giới thiệu vài nét về Tâm lý học Phật Giáo để thấy rõ hơn rằng Tâm lý học Phật Giáo có liên hệ với tâm lý học phổ thông, nhưng có những điểm khác biệt căn bản về nguyên lý của sự tư duy, quan niệm về cấp độ nhận thức; Người viết sẽ trình bày về các yếu tố cấu hợp thành phần tâm linh và so sánh với Tâm lý học phổ thông do tầm quan trọng của chúng ta đối với cơ chế hoạt động tâm lý con người. Sau hết xin được khẳng định: Sự an lạc nội tâm và hướng dẫn được nội tâm chỉ có thể đạt được qua công trình tự quán chiếu dựa trên đức hạnh trong sạch và Thiền tập.

Hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, con xin thành kính ghi ân:

Thượng Toạ Thích Chơn Thiện.Tiến sĩ Phật học.

Giáo Sư Trần Tuấn Lộ Tiến sĩ Tâm lý học

Đã khích lệ và tận tình hướng dẫn con trong quá trình thực hiện đề tài.

Trân trọng ghi ân Giáo sư Minh Chi và các tác giả của những tác phẩm đã cung cấp tư liệu cho luận văn tốt nghiệp.

NS Thích Nữ Hương Nhũ

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Vi tính: Đồng Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2013(Xem: 6135)
Nhiều người cho rằng đức tin và trí tuệ trong thiền quán (vipassanà) đối nghịch nhau, mâu thuẫn và không thể phối hợp. Không phải vậy! chúng thân hữu và là hai nội lực quan trọng. Trong thông tin vừa rồi, tôi đã viết về những điểm đặc thù và khác biệt giữa các hành giả châu Aù và phương Tây.
29/03/2013(Xem: 10466)
Tư tưởng hiện đại hay (tâm hồn hiện đại) cũng không xa tư tưởng ngày xưa là mấy. Những triết gia từ thiên cổ đã mở rộng tâm thức bao quát mọi chân trời. Có người đã lặng thinh.
01/03/2013(Xem: 6725)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo, làm căn bản cho bộ Duy thức luận của Vasubandhu. Học thuyết Duy tâm được biểu hiện trong các câu quen thuộc, thường được trích dẫn trong kinh Lăng Già, chỗ nào cũng là tâm cả (nhất thiết xứ giai tâm), tất cả hình tướng đều do tâm khởi lên (chúng sắc do tâm khởi), ngoài tâm không có cái gì được trông thấy (tâm ngoại vô sở kiến), thế gian chỉ là tâm (tam giới duy thị tự tâm), ba cõi do tâm sinh (tam giới do tâm sinh) v.v..
26/02/2013(Xem: 4189)
Kinh Đại Bát Nhãnói Bồ-tát là người “Vì chúng sanh mà cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cứu độ những chúng sanh điên đảo chấp ngã” (Phẩm Đạo thọ thứ 71), “vì chúng sanh mà cầu Vô thượng chánh đẳng chánh giác” (Phẩm Nhất niệm thứ 76), “hành sáu ba la mật, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại, mười tám pháp bất cọng, hành đại từ đại bi, hành nghiêm tịnh cõi Phật, thành tựu tuệ giác cho chúng sanh” (Phẩm Bồ-tát hạnh thứ 72).
12/01/2013(Xem: 4916)
Bây giờ chúng ta bắt đầu phần thứ nhì của bản văn, giải thích chủ yếu. Phần này có ba phần: ý nghĩa danh đề của bản văn, nội dung của bản văn và lời cuối. Chương 1 của Giải thích Trung Luận này gồm có Các giải thích mở đầu [= Giải thích Trung Luận. (Bài 1)], Tụng mở đầu Trung luận [Giải thích Trung Luận (Bài 2)], và Giải thích về chương 1 của Trung Luận. Phần thứ nhì là giải thích các chương từ chương 2 tới chương 27.
09/01/2013(Xem: 3869)
Như được giải thích trong chương trước, tất cả mọi hiện tượng cho dù vô thường hay thường, đều có những phần tử. Những phần tử và toàn thể tùy thuộc với nhau, nhưng chúng dường như có thực thể riêng của chúng. Nếu toàn thể và những bộ phận tồn tại trong cách mà chúng hiện diện đối với quý vị, quý vị phải có thể chỉ ra một tổng thể riêng biệt với những phần tử của nó. Nhưng quý vị không thể làm như thế.
31/12/2012(Xem: 6673)
Phật giáo hiện hữu trên đất nước Việt Nam, hơn 2000 năm đồng hành cùng dân tộc. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm của đất nước Phật giáo luôn làm tròn sứ mệnh của một tôn giáo gắn liền với nền văn hoá nước nhà. Chiến tranh đi qua, để lại bao đau thương mất mát, cảnh vật hoang tàn, đời sống nhân dân nghèo đói cơ hàn. Đến thời độc lập, ngoại xâm không cò n nữa, đất nước từng bước chuyển mình đi lên, Phật giáo cũng nhịp nhàn thay màu đổi sắc vươn lên, GHPGVN được ra đời vào ngày 07/11/1981 đến nay gần 22 năm với VI nhiệm kỳ hoạt động của giáo hội.
29/12/2012(Xem: 5862)
Chủ đề của sách này chính là ‘không’. Nói đơn giản: cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp. Cái không của Bát-nhã là ‘nghĩa sâu sắc’ của sự thể ngộ. Cái không của Long thọ là là giả danh, tánh không của kinh Bát-nhã, và sự thống nhất trung đạo và duyên khởi của kinh A-hàm.
28/12/2012(Xem: 10378)
Trong bầu không khí trang nghiêm, hòa hợp, thắp sáng niềm tin vào nền giáo dục nhân bản Phật giáo của ngày Hội thảo Giáo dục Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VI (2007 -2012) của Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương với chuyên đề “Giáo dục Phật giáo Việt Nam định hướng và phát triển”, tôi xin phát biểu một số ý kiến chung quanh vấn đề Giáo dục Phật giáo như sau:
12/12/2012(Xem: 6458)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánh – Phật giới (buddha-dhātu), v.v., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều, nhưng làm tính khả năng để thành Phật, trên phương diệt bổn tánh chẳng phải là hai của chúng sanh và Phật để nói, thì có ý nghĩa nhất trí với nhau. Tại Ấn-độ, sự hưng khởi của thuyết Như lai tạng khoảng vào thế kỷ thứ 3 A.D., từ giai đoạn sơ kỳ Đại thừa tiến vào hậu kỳ Đại thừa Phật giáo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]