Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Phật Giáo Là Tôn Giáo Bi Quan, Tiêu Cực?

01/01/201108:42(Xem: 7442)
06. Phật Giáo Là Tôn Giáo Bi Quan, Tiêu Cực?

PHẬT GIÁO LÀ TÔN GIÁO BI QUAN, TIÊU CỰC?

Phật giáo không bi quan cũng không lạc quan mà Phật giáo là một tôn giáo thiết thực.

Có một số nhà phê bình cho rằng Phật giáo là tôn giáo bệnh hoạn, u sầu, yếm thế, luẩn quẩn xung quanh mặt đen tối và bóng râm của cuộc đời, một kẻ thù của những thú vui vô tội, và là một kẻ giẫm đạp không có cảm giác lên những niềm vui ngây ngô của cuộc đời. Họ cảm thấy Phật giáo như là một tôn giáo bi quan, như là một sự nuôi dưỡng một thái độ tuyệt vọng đối với cuộc đời, là một sự khích lệ mang tính mơ hồ, một cảm giác tổng quan rằng khổ đau và tội lỗi ngự trị trong những lợi ích của con người. Những nhà chỉ trích này căn cứ quan điểm của họ trên Chân lý thứ nhất rằng tất cả các pháp hữu vi trong trạng thái đau khổ. Dường như họ quên rằng Ðức Phật không chỉ dạy nguyên nhân và sự chấm dứt khổ đau mà ngài còn dạy phương pháp để chấm dứt khổ đau. Trong bất kỳ trường hợp nào, liệu có một bậc đạo sư nào tán thành đời sống thế tục này và khuyên chúng ta hãy chấp lấy nó không?

Nếu bậc thầy sáng lập của tôn giáo này-Ðức Phật- là một con người bi quan như thế thì người ta không mong đợi nhân cách của Ngài phải được miêu tả bằng những đường nét mộc mạc hơn là đã được vẽ như trước đây. Hình ảnh Ðức Phật chỉ là một sự nhân cách hóa của tình thương, hoà bình, chân thành, hy vọng và thiện chí. Nụ cười hấp dẫn và toả rạng của Ðức Phật, được cho là huyền bí và khó hiểu, là tấm gương hoàn hảo nhất của giáo lý của Ngài. Ðối với những con người lòng đầy lo lắng và nản lòng, nụ cười giác ngộ và niềm hy vọng của Ngài là chất cam lồ bổ dưỡng và êm dịu vô tận.

Ðức Phật rải tình yêu thương và lòng từ bi của Ngài trong khắp tất cả các phương hướng. Một con người như thế khó lòng mà gán cho là một con người bi quan. Và khi thanh kiếm của những bậc vua chúa và hoàng tử hạnh phúc lắng nghe ngài, họ nhận ra rằng sự chinh phục chân thật duy nhất là sự chinh phục của tự ngã và cách tốt nhất để chiến thắng được con tim của nhân loại là dạy họ biết cách trân trọng Pháp-Chân lý.

Ðức Phật tu tập tính hài hước của Ngài đến mức cao độ đến nỗi những đối thủ không đội trời chung với Ngài được làm nguôi giận với một sự thoải mái vô cùng. Thường thì họ không thể không mỉm cười chính họ. Ðức Phật có một ảnh hưởng rất tuyệt vời; ngài lau chùi sạch sẽ những hệ thống độc tố vô cùng nguy hiểm của họ và sau đó họ trở thành nhiệt tình theo gót chân Ngài. Trong các bài thuyết giảng, thảo luận và hội thoại của Ngài, Ngài xác nhận sự tự tin và thái độ bình tĩnh khiến Ngài được mọi người kính trọng và yêu mến. Làm thế nào chúng ta có thể kết tội cho một nhân vật như thế là bi quan, tiêu cực?

Ðức Phật không bao giờ mong đợi chư đệ tử Ngài thường xuyên suy nghĩ liên miên về nỗi khổ đau của cuộc đời và sống một cuộc sống khổ đau và bất hạnh. Ngài chỉ dạy sự thật khổ đau để mà Ngài có thể chỉ cho nhân loại làm thế nào để vượt qua nỗi đau khổ này và tiến đến con đường của hạnh phúc. Ðể trở thành một con người giác ngộ, người ta phải có niềm hoan hỷ, một trong những yếu tố mà Ðức Phật yêu cầu chúng ta phải tu tập. Niềm vui hay sự hỷ lạc hầu như đâu phải là bi quan.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/12/2012(Xem: 6438)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánh – Phật giới (buddha-dhātu), v.v., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều, nhưng làm tính khả năng để thành Phật, trên phương diệt bổn tánh chẳng phải là hai của chúng sanh và Phật để nói, thì có ý nghĩa nhất trí với nhau. Tại Ấn-độ, sự hưng khởi của thuyết Như lai tạng khoảng vào thế kỷ thứ 3 A.D., từ giai đoạn sơ kỳ Đại thừa tiến vào hậu kỳ Đại thừa Phật giáo.
25/11/2012(Xem: 6941)
Tôi đã trình bày cấu trúc căn bản của đạo lộ Phật giáo căn cứ trên lời giảng về ba chương trọng yếu: Quán mười hai chi duyên khởi, Quán ngã và vô ngã, Quán bốn thánh đế trong Trung Luận của ngài Long Thọ. Bây giờ chúng ta sẽ tiến vào phần thứ hai, làm cách nào đem tất cả các lí hội thông hiểu với cấu trúc này vào công cuộc tu tập Pháp thật sự. Tôi sẽ giảng giải điều này trên căn bản của một bản văn ngắn của ngài Tsong Khapa, “Ba phương diện chính yếu của đạo lộ” (“Three Principal Aspects of the Path”). Ba phương diện mà Ngài Tsongkhapa đề cập trong bản văn của ngài là xuất li siêu việt, tâm bồ đề, và tri kiến đúng về tính không.
22/11/2012(Xem: 15495)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
19/11/2012(Xem: 13145)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
19/11/2012(Xem: 9538)
Nhân minh học là gì? Môn học này của Phật giáo ở phương Tây thường gọi là logic học hay là Luận lý học. Viện sĩ Nga Th.Scherbatsky, trong bản dịch Anh ngữ cuốn "Nyaya bindu" của Luận sư Ấn Ðộ Dharmakirti (Pháp Xứng) cũng dịch đầu đề cuốn sách là "A short treatise of logic" tức "Một bộ luận ngắn về logic".
16/10/2012(Xem: 8357)
Nghiệp (Karma) là một đề tài nghiên cứu lớn của các nhà triết học và tôn giáo Ấn Ðộ, Phật giáo cũng không ngoại lệ. Nó luôn luôn là đề tài thảo luận sôi nổi của con người,con người từ đâu sinh ra và sẽ đi về đâu sau cuộc sống này, là câu hỏi muôn thuở và mãi mãi về sau...
03/10/2012(Xem: 9320)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ. Đây là tinh túy của cách sống một cuộc đời đạo đức. Mỗi một hành động đều bắt nguồn từ một động cơ. Nếu ta phương hại người khác, điều này bắt nguồn từ một động cơ; và nếu ta giúp đỡ người khác, điều ấy cũng bắt nguồn từ một động cơ. Thế nên, để hỗ trợ hay phục vụ người khác, chúng ta cần một động cơ nào đấy. Vì thế, ta cần các khái niệm nào đó.Tại sao ta lại giúp đỡ và không phương hại người khác?
20/09/2012(Xem: 6248)
Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu. Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ. Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những khái niệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn
18/09/2012(Xem: 12990)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
06/09/2012(Xem: 4289)
Gần năm tháng nay, hắn đã sống hững hờ như một thây ma; mỗi ngày bắt đầu lại một mặt trời cũ, dâng lên trên những mái nhà một xác thối của mặt trời, ánh sáng của đèn cầy còn dễ thở hơn ánh sáng của mỗi ngày dư máu. Máu ứ đọng lại trong lòng mặt trăng của tư tưởng. Hắn thù ghét sanh từ, động từ “ý thức” và thù ghét cả tính từ “ý thức”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]