Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tính Không và Thượng Đế

11/10/201003:14(Xem: 5310)
Tính Không và Thượng Đế
TÍNH KHÔNG VÀ THƯỢNG ĐẾ
TỪ THOÁI TRÀO PHẬT GIÁO
ĐẾN CAO TRÀO TIN LÀNH Ở VIỆT NAM
Nguyễn Hữu Liêm

Lời nói đầu

Trong khi Phật giáo càng ngày càng trở nên một cao trào triết học và tâm linh (spirituality) cho giới trí thức Tây phương thì Phật giáo Việt Nam (PGVN) đang đi vào thoái trào trên phương diện tín ngưỡng (religion) đối với quần chúng Việt Nam. Sự thoái trào, hay “mạt pháp”, này được biểu lộ qua hai hiện tượng: 1. Trí thức Phật tử Việt ở hải ngoại bỏ chùa để theo tu học các giáo phái khác, và 2. quần chúng ở trong nước, ở các vùng thôn quê vốn có ảnh hưởng Phật giáo, nay đi theo đạo Tin lành ngày càng đông.

Có nhiều lý do cho sự thoái trào này. Trong bài này tôi chỉ nêu lên hai vế của một vấn đề khái niệm và ngôn ngữ: cái gọi là “Tính Không” và “Thượng Đế”. Khi giáo lý nhà Phật - vốn được hiểu bởi quần chúng - phủ nhận “Thượng Đế” và “linh hồn”, thì đối với tâm thức khát khao niềm tin của con người thời đại, Phật giáo không còn hấp dẫn đối với họ. Trên phương diện học thuật, khi “Tính Không” trở thành một đối thể tri thức cho trí thức Phật giáo, khi trò chơi ngôn ngữ nay đã trở thành một “bình ruồi” (nói theo Wittgenstein) mà kẻ tham dự không thoát ra được, Phật giáo chỉ còn là một hoài niệm hay là một tự ái bản sắc cá nhân.


A. Vấn đề đạo học cơ bản: Giữa Thượng Đế và Tính Không

1. Nhu cầu về một bản thể cho đức tin

Không có vấn nạn Đạo học nào, theo thiển ý của tôi, cần thiết phải đối diện và đương đầu trong học thuật và giáo lý Phật giáo hơn là câu hỏi về khái niệm Thượng Đế. Đứng ngoài phương diện học thuật về bản thể luận, đây là khoảng trống cơ bản đã đưa đẩy nhiều Phật tử ra khỏi Phật giáo Việt truyền thống để đi theo những tôn giáo và trường phái đạo học khác.

Trong một bài viết mà tôi nhớ được của phái tu học Thanh Hải – sẽ nói tới sau – có đoạn, “Năng lực đời sống tâm linh phải hướng về một đối thể linh thiêng nào đó chứ không thể nói theo các tu sĩ Phật giáo là để đi tìm chữ Không được.” Bỏ qua một bên về cách hành văn hay là sự kiện, chúng ta phải công nhận rằng đây là một đánh giá xác đáng và là một lời kêu gọi hiệu năng cho một niềm tin về “một đấng tuyệt đối” nào đó hướng về giới Phật tử đang khao khát một con đường tu đạo.

Về mặt tín ngưỡng, tình trạng Phật học hiện nay là sự kéo dài một sai lầm về giáo lý đạo Phật. Ít nhất là trên phương diện truyền đạt, hay là qua phương tiện chuyên chở của khái niệm và ngôn từ của Phật giáo Việt, mà phần lớn mang nặng Hán ngữ [1], đạo Phật vẫn là đạo của “chữ Không”, của “vô ngã”, của “đời là bể khổ” được sử dụng và hiểu bởi quần chúng như là của những phạm trù tiêu cực và phủ định. Với cảm nhận tiêu cực về ngôn từ và khái niệm của Phật giáo qua ngôn ngữ Việt, đạo Phật chỉ là hấp lực cho những con người thụ động, thiếu khả năng thích ứng với cuộc đời, thiếu ý chí và khả năng sinh hữu với sự sống đầy thử thách, khó khăn. Trong khi đó, Phật giáo phải là con đường của những con người có năng lực tâm thức cao, ý chí mãnh liệt và đời sống tâm linh dồi dào. Những ai thất bại với cuộc đời cũng sẽ thất bại trên con đường tu học. Cái khó khăn và thử thách cho một cuộc sống thế gian không thể so sánh với những khó khăn và thử thách của con đường tu Phật. Nhưng điều này thì ít khi được nhấn mạnh và làm sáng tỏ. Các buổi thuyết pháp bằng Việt ngữ thường chỉ nhấn mạnh đến các phương diện tâm lý học và các phương diện tiêu cực của cuộc đời.

Muốn có đời sống đạo, giáo lý nhà Phật không chỉ có dạy con người đổ bỏ cái ly rượu hiện hữu để tìm khoảng trống không, mà là phải thay thế chất liệu hiện hữu của cái ly cuộc đời hiện tại bằng một nội dung tinh thần mới. Vì thế, ngôn ngữ và khái niệm Phật giáo – như được truyền đạt bằng Việt-Hán ngữ hiện nay – chỉ có thể làm cho cá nhân bị trống vắng tinh thần thêm; trong khi đó, con người muốn rót đầy ly đã cạn của họ bằng một nội dung tích cực và thực hữu. Phật giáo Việt thất bại trên bình diện này.

Phật tử không thể giảng đạo cho người mới, hay là giữ được người Phật tử ở với đạo, nếu cái được cống hiến là một ý chí và tâm thức phủ định. Họ cần niềm tin, họ cần đối thể cho tinh thần, họ cần được thoả mãn năng lực tình cảm của trái tim, chứ không phải là của tri thức mà thôi. Cái điểm yếu của Phật giáo là nhấn mạnh về mặt trí thức quá đáng – trong khi tôn giáo cho con người hiện nay vẫn còn là sự khao khát của trái tim. Nói theo ngôn ngữ của Yoga thì Phật giáo chú tâm vào Raja Yoga, nhấn mạnh về thiền định và trí tuệ, trong khi quần chúng Việt Nam càng ngày càng thích hợp hơn cho Bhakti Yoga, vốn là về niềm tin, như là của Thiên Chúa giáo và Hồi giáo.


2. Vấn đề khái niệm và biểu tượng Thượng Đế trong Phật giáo

Một số các Phật tử Việt, thấm nhuần ngôn ngữ giáo lý truyền thống, hễ khi nghe đến hai chữ “Thượng Đế” là họ có một sự phản ứng thuần máy móc và tiêu cực. Dĩ nhiên là Phật giáo không sử dụng và không công nhận khái niệm Thượng Đế như là của Thiên Chúa giáo hay là Hồi giáo. Nhưng điều đó không có nghĩa là Phật giáo phủ nhận sự hiện hữu của một tính thể hay là một nguyên tắc siêu việt mang tính chất chủ thể cho hiện tượng. Có thể nói rằng, Phật giáo là một nỗ lực cải cách, hay là một cách mạng về khái niệm, một cao trào thay đổi tư duy về thực tính và bản thể (a reconceptualization of the metaphysical ontology). Phật giáo không công nhận khái niệm Thượng Đế như là một nhân thể sáng thế (a personal creator God). Đức Phật phủ nhận khái niệm và từ chối thảo luận về câu hỏi Thượng Đế trên bình diện bản thể luận và giữ thái độ im lặng trước vấn nạn này là vì các lý do thuần khế cơ thực nghiệm, ngôn ngữ và văn hóa, trước nhu cầu giải phóng ngôn từ đạo học ra khỏi ảnh hưởng nặng nề và phản tiến hóa của Hinduismphổ thông ở thời đó, nhất là với tinh thần tôn thờ mù quáng vào đối thể Thượng Đế của người Ấn giáo. Khi ngôn ngữ và tri thức hữu hạn không thể định nghĩa hay khái niệm hóa Thượng Đế được thì đức Phật đã im lặng trước các câu hỏi về vấn đề này. Thượng Đế là cái không thể nghĩ bàn - và nó chỉ được nói đến như là một tính thể phủ định “không phải vậy, không phải thế.”

Tuy vậy, nếu chúng ta đọc các kinh như Lăng Nghiêm (Surangama) hay Lăng Già (Lankavatara) thì sẽ thấy rằng, bằng một phương án giáo pháp mới, đức Phật đặt nền tảng bản thể luận vào một thể tính Tâm thức Tuyệt đối, (a state of Absolute Consciousness, the Mind Essence),mà chúng ta có thể gọi là Chân Nguyên, Phật tính, Tánh Biết Thường Hằng, Chân Tâm. Chưa bao giờ Phật giáo đặt bản thể vào cái gọi là “Tính Không” (Sunya).Tính Không chỉ là một khái niệm thuộc về phạm trù phủ định trong sự thảo luận trên bình diện hiện tượng. Tính Không không phải và không thể là một đối tượng cho đời sống tâm linh hay là cứu cánh cho lòng khát khao của cái ly trống tinh thần. Tiếc rằng rất nhiều trí thức Phật giáo bị đi vào mê hồn trận của ngôn ngữ để rồi chấp nhận Tính Không như là một bản thể để hướng về.

Nhìn lại bản thể luận về một tính thể chân nguyên, cái “Chân không diệu hữu” của Phật giáo, nó có một vấn đề trên bình diện khế cơ. Nó thỏa mãn nhu cầu tri thức như là một sự ký thác của khái niệm trên một phạm trù triết học, chứ nó không đáp ứng được năng lực khao khát tình cảm của con tim. Tôn giáo phải là một vấn đề của tâm linh, vượt qua trí thức, để đi vào cõi linh thiêng; do đó, nó phải có năng lực đức tin. Mà đức tin thì phải có một đối tượng của nó, một đối thể thực hữu - ít nhất là trên phương diện biểu tượng - chứ không thể là một phạm trù phủ định được. Con đường đi đến kinh nghiệm linh thiêng và huyền diệu của cái Hữu trong Tâm Phật bắt đầu bằng con lộ của ngôn ngữ và biểu tượng. Vì thế mà Phật giáo có tượng Phật, có kinh nhật tụng, có tăng ni, có nghi thức. Đối với quần chúng Phật tử bình dân ngày xưa thì hệ thống biểu tượng này là vừa đủ cho họ. Nhưng nay thì hệ thống biểu tượng này đã trở nên nhàm chán và trống rỗng. Còn với trí thức, khi họ nhìn xuyên qua hệ thống biểu tượng của Phật giáo Việt theo truyền thống Hán Việt thì họ không còn thấy gì cao hơn nữa mà chỉ là một khối lý luận hỗn độn, không minh, không linh, và mang nặng tính chất phủ định.

Cái khuyết điểm lớn cho khái niệm “Thượng Đế” hay “Chúa Trời” trong các tôn giáo có nguồn gốc từ Do Thái giáo là sự nhân cách hóa và khách thể hóa tính thể này - một ý nghĩa về một tên gọi và biểu tượng thiếu sót và sai lạc vì nó bỏ quên “chiều sâu thượng đế” bên trong mỗi cá nhân. Hãy nhớ rằng trong Tân Ước, Chúa Jesus đã tuyên bố, “Một điều đã được viết rõ ràng trong luật đạo (Psalm của Do thái giáo) mà ta muốn nói, ‘Các ngươi đều là thượng đế (gods)’” (John 10). Lịch sử của Thiên Chúa giáo là một quá trình lẫm lẫn về ý nghĩa của Thượng Đế. Hãy đọc các bản dịch Tân Ước bằng Việt ngữ thì sẽ thấy được sự nhầm lẫn cơ bản này [2]. Chúng ta không thể lấy cái sai lầm để đo lường chân lý được.

Nhưng đối với một trình độ tiến hóa tâm linh cho khối nhân loại Việt Nam, cái tên gọi Thượng Đế này phải mang tính chất của một “Ngài”, một “Đấng”, với những tính chất con người. Người Phật tử Việt chưa bao giờ từ bỏ cái vế của “ông Trời” khi nói về tính thể này trong ngôn ngữ “Trời-Phật” của họ. Dĩ nhiên, chữ Trời này không phải là “Chúa Trời” của Thiên Chúa giáo. Chữ Trời của Việt ngữ là một cách nói về một đối thể của niềm tin, vốn là cần thiết. Nó gần với chữ Đạo, chữ Thiên, chữ Tạo hóa. Nó có một sự dung thông, hòa nhập, giữa Ta với Trời, có Trời và cũng có Ta - chứ không phải cái ta cá thể chỉ là một thuộc tính được sáng tạo bởi một nhân cách được biểu tượng trong truyền thống của các tôn giáo gốc Do Thái (Abrahamic religions). Chữ Trời bình dân của Việt ngữ chưa hề trở nên là một biểu tượng nhân cách hóa cho một đối thể thực hữu với những mệnh lệnh đạo lý chắc nịch buộc con người phải lắng nghe. Mà con người bình dân Việt Nam thì cần có một đối thể đầy nhân cách, với một hệ thống ngôn từ mệnh lệnh chắc mãn, tích cực, chủ động và bắt buộc một tâm ý phục tùng vào một đối thể đầy linh thiêng, đầy khả năng ban phát ân huệ và trừng phạt cho họ. Họ cần một vị cha già nghiêm khắc, nhưng đầy yêu thương và công bằng, để họ tin và yêu, để họ cầu nguyện, để họ kêu lên. Truyền thống Phật giáo cho họ biểu tượng Quán Thế Âm của trái tim từ bi, của A Di Đà cho trí tuệ siêu việt, của Đại Thế Chí cho ý chí sinh hữu, cho Di Lặc của một niềm vui khoáng đạt. Nhưng biểu tượng của Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn còn nằm trong cõi hữu hạn của khả thể linh thiêng con người, cái tột đỉnh của tiến hóa tâm thức, nhưng chưa phải là một đối thể “Cha già” của một ông Trời đầy mầu nhiệm và kỷ luật.

Quần chúng nào thì biểu tượng đó, tâm thức nào thì tôn giáo đó. Tất cả chỉ là “cửa đi vào” Đạo dành cho một bản chất con người theo từng thời đại, từng hoàn cảnh, từng khối nghiệp duyên. Ngôn ngữ và biểu tượng là những tiếng chuông đánh thức. Chúng chỉ có tác dụng đến một mức độ nào đó, một thời gian giới hạn. Tới lúc mà Thời quán tâm thức đã chuyển tiếp, thì tiếng chuông cũ nay trở nên tiếng nhạc ru ngủ, thay vì tỉnh thức, ngôn ngữ cũ không còn ý nghĩa tác động tâm thức, biểu tượng cũ nay trở nên quen thuộc và nhàm chán.

Có phải Phật giáo Việt Nam, qua hệ thống biểu tượng truyền thống, với phong thái tăng ni và hình thức nghi lễ xưa nay, với hệ thống ngôn ngữ Hán Việt, ngày nay đã mất hết chất men tinh thần - như tiếng chuông đã không còn mang âm hưởng, như muối đã hết mặn, như rượu đã hết chất men, đường không còn vị ngọt?


3. Đến những đồng cỏ Đạo mới: từ Lương Sĩ Hằng, Thanh Hải đến Osho

Từ sự phân tích sơ khởi và tổng quát trên, chúng ta có thể suy luận ra được nguyên nhân nào mà một số đông trí thức Phật tử Việt ở hải ngoại đang đi vào những trường phái tu học khác mang màu sắc Phật giáo - nhưng nhấn mạnh đến hai khái niệm Thượng Đế và linh hồn. Trường hợp của phái Vô Vi của Lương Sĩ Hằng, phái Khai Ngộ của Thanh Hải hay là những bài giảng giáo lý của Osho là những thí dụ điển hình.

Khi Lương Sĩ Hằng đến California vào đầu thập kỷ 1980-1985, một hiện tượng tu học mang mầu sắc Phật giáo Việt Nam xuất hiện hấp dẫn một quần chúng rộng rãi mà rất đông là trí thức Phật tử. Đây là một hiện tượng mới ở thời gian đó: vừa trí thức vừa mê tín, nửa học thuật nửa thần quyền. Giáo lý là Phật giáo nhưng lại nói trên cơ sở khái niệm “Thượng Đế” và “linh hồn.” Cái mê tín là pháp tu “xuất hồn”; cái lý thú là sự giải thích giáo lý nhà Phật qua khái niệm Thượng Đế. Phái tu này gọi là “Pháp lý Vô vi khoa học huyền bí Phật pháp”. Pháp lý này nhấn mạnh đến thiền định - đi đôi với niềm tin vào Thượng Đế và giải thoát linh hồn. Đây là con đường tu học bao gồm cái ưu điểm của Phật giáo trong truyền thống thiền định của Raja Yoga và năng lực đức tin vào chủ thể Thượng Đế và bản sắc cá thể của linh hồn. “Thượng Đế” và “linh hồn” ở đây thay vào khoảng trống của “Tính Không” và “vô ngã”. Nguồn trực giác về bản thể cho sự Hữu, (the ontological intuition of Being), được chất đầy bằng hai khái niệm thực hữu (affirmative concepts) là “Thượng Đế” (khách quan) và “linh hồn” (chủ quan) để giải quyết vấn nạn hữu thể mà người Phật tử hay vướng mắc. Chúng như là hai vế của một chiếc bè tạm thời nhưng cần thiết để vượt qua giòng sông ngôn ngữ và khái niệm.

Kinh sách của phái Vô Vi nói, “Linh hồn cá nhân là điểm linh quang của Thượng Đế cho xuống trần gian để học hỏi tiến hóa. Vì linh hồn thì rất thanh mà cõi trần thì trọng trược, nên nó phải đầu thai vào xác thân con người cho hợp với khí chất cõi trần. Khi xuống trần, vì mê trần, nhiễm trần, con người phạm tội và gây nhân tạo quả xấu từ vô số kiếp nên phải luân hồi mãi. Vì vậy mà cần phải tu hành hầu trở nên hoàn thiện, trở về hưởng phước trên Thiên Đàng, giải thoát ra khỏi luân hồi”.

Hay là, “Nếu nói diệt dục được ngay là nói láo, trên thực tế khó mà làm được. Pháp lý Vô Vi nầy không có khuyên bảo hay ép buộc người tu hành diệt dục, mà hãy để cho họ, nhờ công phu luyện đạo, một ngày kia sẽ tự diệt lấy, gần như là tự động một cách dễ dàng, chứ không gò ép khổ sở”. Hay, “Người tu mà không có minh sư đắc đạo dẫn dắt, mà chỉ dựa vào kinh sách, thì khó mà đạt được kết quả”.

Và, “Hỏi: Tại sao trong kinh Phật không hề nói đến ‘xuất hồn’ mà Pháp lý này dạy thế, vậy đây có phải là chánh pháp không? Trả lời: Trong kinh Phật thường có nói tu để được “minh tâm, kiến tánh”. Tức là tu là để biết Tâm (hồn), Tánh là vía. Hồn là chủ nhơn ông, ví như ông chồng xuống trần gian, bị giam hãm nơi con tim, và Vía là phụ tá, ví như là vợ, ở nơi lỗ rún. Nếu ta tu luyện cho đến khi Hồn, Vía gặp nhau, như là chồng gặp vợ, rồi tạo nên ‘Thánh thai’. Thánh thai mang nhiều tên khác nhau tuỳ theo Pháp môn; trong nhà Phật thì gọi là Pháp thân, hay Kim đơn, Phật tử, Xá lợi tử”. (Tôi tầm đạo, 1980, California)

Chúng ta thấy một tập hợp ngôn ngữ vừa siêu hình, vừa biểu tượng thực dụng, nói về một lãnh vực siêu nghiệm mà người nào không chia sẻ được thì phải cho là mê tín. Đây chỉ là ngôn ngữ của niềm tin vào huyền bí hơn là của lý trí nghiệm thực.

Cũng như thế là phong trào tu học của sư cô Thanh Hải, người được xưng tụng là “vô thượng sư”. Thanh Hải cống hiến phép tu Quan Âm với hứa hẹn “khai ngộ tức thì” qua các phép thiền định, ăn chay trường, và “truyền tâm ấn” bởi chính sư phụ. Bà cũng nhấn mạnh đến khái niệm Thượng Đế và linh hồn và kết hợp giáo lý Thiên Chúa giáo và Phật giáo qua một phương cách phiên giải Tân Ước và Pháp Hoa mới.

Bà giảng, “Tôi không theo đạo Phật hay Thiên Chúa. Tôi theo đạo sự Thật và rao giảng sự Thật. Bạn có thể gọi nó là Phật giáo, Công giáo, Lão giáo hay bất cứ gì bạn thích.” “Bất cứ bạn phải làm gì trên thế gian này, hãy làm đi, và làm một cách nhiệt thành. Hãy sống trong tinh thần trách nhiệm và nhớ hãy tu thiền mỗi ngày. Bạn sẽ phát huy kiến thức, thêm trí tuệ, được an lành, để mà phục vụ chính bạn và thế gian. Đừng quên là bạn có Thượng Đế ở trong bạn. Đừng quên là Thượng Đế nằm trong thân thể bạn. Đừng quên là bạn có Thượng Đế trong tim mình”.

Hay là, “Nói về ‘truyền tâm ấn’ nhưng thực ra chẳng phải là tôi truyền tâm ấn gì cho bạn, mà tôi chỉ giúp bạn tự giúp lấy chính mình. Tôi không đến đây để thu nhận bạn làm đệ tử. Tôi đến để giúp bạn trở nên một thượng sư (master). Có thể gọi là “rửa tội” (baptism) hay là “quy y”. (Tài liệu của tổ chức Thanh Hải, Taipei, 2003) [3]

Cả hai Thanh Hải và Sĩ Hằng đều khai động cái “Pháp phương tiện” của truyền thống Yoga Rajanhấn mạnh thiền định qua ngôn ngữ Phật giáo Hán Việt. Pháp phương tiện này được bổ sung bằng chủ thể Thượng Đế và bản sắc cá thể linh hồn. Nó đáp ứng được hai vế của con đường tu đạo của trí thức lẫn con tim. Người Phật tử hiểu rằng niềm tin vào một đối thể là cần thiết nhưng chưa đủ. Phải tự mình nỗ lực để khai mở chân Tâm. Nhưng khi đi trên con lộ của chánh Pháp, đức tin vào một Hữu thể tối hậu và vững chắc, với một cái Ta cần được cứu rỗi hay giải thoát, dù với khái niệm hay lý giải nào, là điều không thể tránh khỏi.

Khi người trí thức Phật tử Việt, với năng thức tâm linh khao khát đi tìm, họ không còn chữ Trời để sống với, khi chữ Phật đã trở nên thụ động, trống rỗng, và mất hết tác dụng linh thiêng và tỉnh thức, họ sẽ phải đi theo những hệ thống ngôn từ và biểu tượng đạo giáo mới. Khi mà cái trực cảm về cái “ta” cá thể cần phải nhận diện qua khái niệm, khi mà một thực thể tuyệt đối cần phải được định danh tích cực, khi mà cá nhân bị lạc lõng, mất niềm tin vào mình, vào đời, vào khả năng chứng ngộ của rất đông tu sĩ, lạc lõng trong giáo lý truyền thống vốn đã mất hết chất men, thì họ phải bám lấy chiếc bè của ngôn ngữ biểu tượng của các giáo phái mới.

Hay là hãy đọc Osho: “Xin chào vị Phật bên trong bạn. Có thể bạn không biết điều đó. Có thể bạn chưa từng mơ tới điều đó - rằng bạn là một vị Phật, rằng bạn chỉ là bạn, mà không thể là bất kỳ cái gì khác; rằng Phật chính là cốt lõi, là trọng tâm của con người bạn, và điều đó không phải sẽ xẩy ra trong tương lai, mà đã xẩy ra rồi. Phật tính chính là cội nguồn từ đó mà bạn xuất phát, mà cũng chính là mục đích để bạn trở về”.

Hay là, “Thế giới này chuyển vận trong chiếc bánh xe. Một vòng quay của nó được hoàn tất trong hai mươi lăm thế kỷ. Hai mươi lăm thế kỷ sắp tới, phần cuối của thế kỷ 20 này, đang sắp trở thành có giá trị vô cùng lớn lao. Nếu chúng ta có thể tạo ra đà trong thế giới cho việc thiền, cho cuộc hành trình bên trong, cho thanh bình, cho tĩnh lặng, cho tình yêư, cho Thượng Đế. Nếu chúng ta có thể tạo ra một không gian trong hai mươi lăm năm sắp tới để cho Thượng Đế xẩy ra đến với nhiều nhiều người thì nhân loại sẽ có sự sinh thành mới. Con người mới sẽ sinh ra.”

Và, “Bánh xe mà Phật đã chuyển nay đã dừng. Bánh xe phải được quay lại lần nữa. Và đó là công việc của đời tôi và các bạn. Bánh xe đó phải được quay lần nữa.” Osho nói. (Bát Nhã tâm kinh. Bản Việt ngữ của Vạn Sơn và Như Không, California, 2002-03)

Osho, cũng như Lương Sĩ Hằng, Thanh Hải, cũng như là Gurdjieff ở thế kỷ trước ở Âu Châu, là một trong những đạo sư gây ra nhiều tranh cãi trong cộng đồng báo chí ở Âu Mỹ, từ cuộc sống của họ, đến phương cách và nội dung giảng dạy. Osho là một người uyên bác và chủ trương phá chấp những hình thức hay khuôn thước đạo đức truyền thống, nhất là về phương diện tình dục. Những bài giảng của ông thì trác tuyệt, nhất là khi ông bàn về đạo Phật và lý giải các kinh qua ngôn ngữ của yoga và tâm lý học Tây phương hiện đại. Phật học qua sự phiên giải của Osho trở nên đơn giản, minh bạch và hợp lý - nhất là khi các bài giảng bằng Anh ngữ đã giải phóng trí thức Việt ra khỏi gánh nặng Hán ngữ vốn được hiểu và phiên dịch sai lạc, nếu không nói là nhàm chán. Ông xứng đáng là một luận sư của Phật học thời đại. Và trong nội dung và ngôn ngữ luận giải kinh Phật đó, nhiều trí thức Phật tử Việt nam đã tìm về với Osho như là một đạo sư (guru) cho chính họ.

Tại sao Phật tử Việt đến với họ?

Các yếu tố nào khiến Lương Sĩ Hằng, Thanh Hải, Osho hấp dẫn trí thức Phật tử Việt ở hải ngoại? Tóm tắt, tôi xin nêu lên vài điểm chính:

  • Trình độ chứng ngộ của các vị - theo sự tin tưởng của các môn sinh. Các vị trên đều có một sức mạnh về cá tính, charisma, có khả năng chinh phục các người theo học.

  • Trình độ trí thức, uyên bác, cập nhật với thời đại, trình bày những phương án tu học phá chấp và thích hợp với mẫu người trí thức Á đông đang sống ở Âu Mỹ.

  • Đặt cơ sở đạo học trên giáo lý kinh điển đạo Phật, nhưng

  • Phiên giải kinh sách Phật học theo một bối cảnh tư tưởng rộng lớn hơn, không chỉ giới hạn vào Phật giáo.

  • Sử dụng ngôn ngữ mới, trong sáng và dễ hiểu và thông đạt được giáo lý nhà Phật, nhất là Anh ngữ, và quan trọng nhất,

  • Bổ sung giáo lý đạo Phật với hai khái niệm bản thể “Thượng Đế” và “linh hồn”.

5. Tin lành hóa Phật học?

Có một số Phật tử đổ lỗi và trách cứ là đạo này, đạo kia “quyến rũ” và “mê hoặc” quần chúng. Họ tố cáo các phong trào như Thanh Hải là một hiện tượng “Tin lành hóa” giáo lý đạo Phật khi có sự “nhập cảng” Thượng Đế và linh hồn vào giáo lý nhà Phật. Tôi chia sẻ và thông cảm tại sao có sự phản ứng này. Nhưng điều này cũng cần phải được minh định.

Trước hết, đạo Tin lành là gì? Tiếng Anh là “Protestantism”, được dịch là đạo “Phản thệ”, hay là giáo phái “Phản đối” (lại giáo hội La Mã). “Tin lành” hay “Tin mừng” là dịch từ hai chữ “Good News”. Một cách chung và rất tổng quát thì đạo Tin lành là Thiên Chúa giáo trừ đi giáo hội La Mã (Christianity minus the Roman Catholic Church). Tinh hoa của giáo lý Tin lành là kinh Tân Ước, Thượng Đế là “Chúa Trời” của truyền thống Cựu Ước Do Thái, và Jesus là “con trai một” được đưa xuống trần thế hy sinh trên thập tự giá để cứu rỗi tội lỗi của nhân loại. Đức tin vào Jesus là cần thiết và đủ nhằm cứu rỗi linh hồn. Nếu đạo Tin lành là thế thì tôi không thấy đạo học của Lương Sĩ Hằng, Thanh Hải hay là Osho “Tin lành hóa” được.

Thứ hai: Chữ Thượng Đế (God) mà các vị trên sử dụng không có nghĩa là God (Chúa Trời) theo ngôn ngữ của truyền thống tôn giáo Abraham. Khái niệm và chữ Thượng Đế (God) có một lịch sử lâu dài và sâu rộng, từ trước khi Thiên Chúa giáo xuất hiện và không phải chỉ ở Tây phương hay là Trung đông. Lịch sử Ấn giáo và triết học Hy Lạp từ Socrates đến Plotinus, từ Ba Tư đến Ai Cập, cũng là những lịch sử của khái niệm God với nhiều tên gọi và biểu tượng khác nhau - nhưng chữ God tựu chung vẫn là chữ được quy nạp chung cho khái niệm này. Ngay cả từ Allah của Islam (đạo Hồi) cũng được dịch sang Anh ngữ là God. Chúng ta cũng dùng chữ God để dịch chữ “ông Trời” (Heaven) hay là Đạo (The Way). Còn chữ Chúa Trời là God của Thiên Chúa giáo, một đối thể tôn giáo mang tính chất con người – a personal being. Trong khi đó, chữ God, Thượng Đế, bao gồm một khái niệm rộng lớn, phổ quát và phổ thông hơn. Mỗi tôn giáo, theo tôi, chỉ là một phương cách tiếp nhận khái niệm God theo ngôn ngữ, căn cơ tâm thức quần chúng, cho mỗi bối cảnh văn minh.

Thứ ba: Các vị nói trên không đề cao điều kiện tối cần thiết và không thể thiếu của niềm tin vào vai trò cứu thế của Chúa Jesus. Và ngôn ngữ “cứu rỗi” cũng không phải là một năng lực ban phát từ Chúa Trời khách quan và ngoại thân như là một ân huệ trên cơ sở niềm tin. Jesus chỉ là một biểu tượng nhân cách trong một truyền thống tôn giáo đặc thù. Sự khác biệt giữa Jesus, một con người lịch sử, và Chúa, “Christ”, một tính thể linh thiêng của con người, “a divine reality”, là điều mà tôi nghĩ rằng các vị trên không thể bị nhầm lẫn (như là phần đông các tín đồ Thiên Chúa giáo, cả Tin lành và Công giáo). Khi các vị đó trích Jesus từ Tân Ước, “Thiên đường là ở ngay trong tâm bạn” (The kingdom of God is within you) để diễn giải rằng, “Cõi Chúa Trời” (the Kingdom of God) chính là cõi Phật, và Chúa (Christ) là Phật tính trong tâm mỗi chúng sinh. Diễn giải như thế không có nghĩa và cũng không có gì là “Tin lành hóa” giáo lý đạo Phật. Mà ngược lại, đó là một cách luận giải giáo lý Phật giáo theo đúng khế cơ, ngôn ngữ và kiến thức của con người thời đại – và đã biến cải được ngôn ngữ biểu tượng của Tân Ước và Cựu Ước theo ý nghĩa của Phật giáo.


B. Đến hiện tượng Tin lành ở Việt Nam

Từ những nhận định trên về khuynh hướng tôn giáo và nhu cầu tâm linh của trí thức Phật giáo Việt ở hải ngoại, mà khuynh hướng tôn giáo của người Việt hải ngoại cũng chính là khuynh hướng của người Việt trong nước, hiện tượng Thanh Hải và Lương Sĩ Hằng rất có thể sẽ tiếp tục phát triển ở Việt Nam vì những lý do mà tôi vừa phân tích ở trên. Với quá khứ ba mươi năm của trí thức Phật tử Việt hải ngoại là một tiền đề, một dẫn nhập, thì tôi thiết nghĩ rằng trong một tương lai không xa, như trường hợp Hàn quốc, quần chúng Việt Nam sẽ theo đạo Tin lành rất đông đảo – có thể vượt qua cả số lượng tín đồ Phật tử và Công giáo. Khoảng trống tâm linh nếu không có đạo Phật đổ đầy thì quần chúng sẽ đi những theo đồng cỏ đạo mới. Mà đạo Tin Lành sẽ là một nguồn hấp dẫn chính.

Chúng ta thử phân tích dự phóng này, mà hiện nay nó đang xảy ra ở nhiều nơi ở Việt Nam. Có hai bình diện của hiện tượng Tin lành này. Một là bình diện “đẩy” và kia là “kéo”.


1. Trên bình diện Đẩy

a.Hiện tượng trống vắng đời sống tâm linh: Khi trình độ tâm thức của quần chúng đang thay đổi và chuyển động theo thời đại. Trong những khối quần chúng đông đảo, nhất là ở những vùng quê, xa xôi, ở Trung Bắc và Bắc, đang khao khát một đời sống tâm linh, các vùng xưa nay là Phật giáo nhưng vì thiếu chùa, thiếu sinh hoạt của Gia đình Phật tử, thiếu tăng sĩ, thiếu kinh sách. Các sinh hoạt tín ngưỡng thờ cúng ông bà, tổ tiên theo truyền thống đã trở nên một bình diện xã hội bình dân, phổ biến, không thoả mãn được nhu cầu tôn giáo của họ.

b.Sự thiếu vắng và điểm yếu của Phật giáo: Đây là yếu tố đóng một vai trò quan trọng trong yếu tố xô đẩy này. Cho dù trong những vùng ảnh hưởng Phật giáo là sâu rộng xưa và nay, nhu cầu khao khát tâm linh này lại không được đạo Phật cung ứng cho khoảng trống này. Không phải chỉ vì yếu tố khách quan về nhân sự, cơ chế, hay tổ chức, mà vì nhiều lý do nội tại của giáo lý và đạo học:

  • Ngôn ngữ giáo lý, phong thái nghi lễ, hình ảnh và biểu tượng của Phật giáo đã hết chất men, ý chí tôn giáo đã mòn mõi, đạo lý bị khô cạn. Bánh xe của Chánh pháp đã ngừng quay khi muối của giáo lý đã hết chất mặn, đường của đạo hết vị ngọt; tiếng chuông của chùa đã hết khả năng đánh thức vì bị quá quen thuộc, âm thanh nay đã rè; ngôn từ của kinh tụng không còn kêu gọi tâm thức.

  • Giới tu sĩ Phật giáo mất hết khả năng biểu tượng giá trị Phật đạo khi trình độ tu chứng, ý chí tu học, phẩm chất con người, văn hóa cá nhân và tác phong, hành vi xã hội bị xuống cấp.

  • Nghi lễ, lời kinh, phương cách thờ cúng, hình thái tổ chức, tượng Phật, và nghệ thuật Phật giáo đã không còn sức hấp dẫn hay đóng chức năng đạo học, không thể hiện được sự rung động tôn giáo, không còn uy lực linh thiêng, không còn quyền uy huyền bí. Ngay cả âm nhạc Phật giáo cũng khô cạn và hoàn toàn thiếu vắng chất men tinh thần.

  • Hương vị (taste) tôn giáo của quần chúng nay đã thay đổi quá nhiều, trong khi Phật giáo không cập nhật kịp. Con người ngày nay mang một bản chất tâm lý và nhân sinh quan quá trần tục, mang nặng ảnh hưởng vật chất Tây phương, và không còn đơn giản như ngày trước. Phật giáo nay đã trở thành một vấn đề “Bụt nhà không thiêng”.

2. Bình diện Kéo: Lý do đạo Tin lành lôi cuốn quần chúng Việt

Sẽ có nhiều hình thái tôn giáo khác lôi kéo và hấp dẫn người Việt chung và Phật tử nói riêng. Ngoài các trường phái bình dân như Cao Đài, Hòa Hảo, còn có các tôn giáo lớn như Công giáo và các hệ phái Thiên Chúa giáo, Ấn giáo, Hồi giáo, đạo Bahhai. Nhưng nói chung, đạo Tin lành sẽ là hấp lực chính, là sức kéo mạnh nhất. Có nhiều lý do:

  • Các giáo phái Tin lành rất năng động về công tác truyền đạo, missionary, mà các tín đồ coi công tác đi truyền đạo như là lý tưởng sống chết của họ. Đây là một tôn giáo mang nặng bản chất proselytism, cải đạo người khác.

  • Người bình dân Việt không hề được truyền đạo đã từ lâu lắm. Khi các tâm hồn ngây thơ lần đầu tiên trong đời được chú ý đến, được kêu gọi, được an ủi, được coi trọng, họ sẽ đi theo bất cứ đạo nào đang mời gọi họ. Mà các người truyền giáo Tin lành được huấn luyện và trang bị kỹ thuật tâm lý này.

  • Các giáo phái này có nhân lực, có khả năng tài chánh lớn, có tổ chức và lãnh đạo chặt chẽ và điêu luyện, chuyên nghiệp. Họ xem chuyện truyền giáo như là công tác tiếp thị với một sản phẩm rõ ràng đáp ứng cho nhu cầu của một thể loại quần chúng.

  • Khả năng của Tin lành trên các lãnh vực truyền thông, chuyển tải giáo lý, hình thức đi đôi với nội dung định chế đầy ấn tượng bằng sức mạnh tổ chức qua hình thức. Chỉ trong vòng 10 năm truyền giáo ở Nam Việt Nam trước 1975, mà giáo hội Tin lành đã xây được những ngôi thánh đường to lớn ở những con đường sang trọng bậc nhất ở các đô thị lớn, nhất là Sài gòn.

  • Nội dung giáo lý đơn giản và cương mãnh, rõ ràng, khơi mở niềm tin bằng một thứ ngôn ngữ mới, gợi cảm. Đây là yếu tố thành công của Tin lành: một đức tin mới trong một hệ thống ngôn ngữ và biểu tượng mạnh mẽ, đầy xúc cảm, đơn giản, dễ hiểu. (Thay vì “Ngươi hãy thắp đuốc lên mà đi tìm Chánh pháp tự trong tâm” thì nay là “Ngươi hãy tin Ta, và chỉ có qua Ta, ngươi mới được cứu rỗi để hòng có cuộc sống đời đời.” Thay vì, “Hãy nhìn chúng sanh với tâm từ bi” thì nay là “Hãy bước đi trong yêu thương”. Thay vì phúng điếu, “tiêu diêu miền cực lạc” thì nay là “hưởng nhan thánh Chúa.” Trong khi số lượng kinh Phật thì có thể chứa hết không gian tòa nhà thư viện chính của đại học Harvard thì Tân Ước chỉ cần năm chương ngắn là nói gần hết tinh hoa của Tin lành). [4]

  • Đối với những tâm hồn và đầu óc mới tỉnh thức, như là của quần chúng Việt Nam hiện nay, thì ngôn ngữ và biểu tượng Tân Ước là một ly nước mát, ngọt, là một chiếc bè vững chắc cho cơn khát tinh thần. Tôi đã chứng kiến cảnh của những người trẻ, kể cả trí thức Phật tử, sau khi đọc xong Tân Ước, đã xúc động mạnh, và chỉ với một lời an ủi, kêu gọi tình cảm từ người giảng đạo, họ đã quỳ xuống khóc “xin nhận Chúa Jesus là chúa cứu rỗi cho linh hồn tôi”. Thế là từ đó, cuộc đời họ kể như là “chiến sĩ cho vương quốc của Chúa”, đi đâu cũng mang theo kinh Thánh, đến đâu cũng giảng đạo.

  • Tin lành cống hiến cho người dân một đức tin vững chắc, đơn giản, với hứa hẹn thiên đàng và sự sống đời đời, đi đôi với lời đe dọa đốt cháy vĩnh cửu ở địa ngục. Theo đạo nay không những có gạo, mà có cả thiên đường, có đức tin, có tổ chức, có hệ thống tín hữu, có ngôn ngữ, nghệ thuật, âm nhạc, thánh đường mới – mà lại tránh được địa ngục một cách dễ dàng.

  • Tin lành đi theo nhịp trống của sức mạnh văn minh và văn hóa Tây Âu, từ biểu tượng đến tinh thần. Từ việc người Việt nhuộm tóc vàng, sửa mũi cao, mặc Âu phục, cho đến các hệ thống giá trị định chế, chính trị, học thuật, thẩm mỹ Tây Âu được coi như là chân lý phổ quát và hoàn vũ, thì Tin lành cũng chỉ là một hiện tượng văn hóa trong cao trào Tây phương hóa này.

  • Tin lành đáp ứng được với tâm thức quần chúng hiện nay vốn là năng lực của trái tim – như là một sự khởi động của niềm tin, một phản đề với văn minh lý tính của hiện đại.
Đối với những người thấu hiểu được nội dung và tinh hoa của Thiên Chúa giáo, và hệ phái Tin lành, thì chất men ngôn ngữ và biểu tượng của tôn giáo này không thể hấp dẫn họ được - nếu không nói là họ sẽ dị ứng với cái tính cách đầy ngây ngô và buồn cười của hệ thống giáo điều biểu trưng cho một chuỗi dài vô minh phát xuất từ sự hiểu lầm trầm trọng nền tảng tinh hoa của Thiên Chúa giáo nguyên thuỷ. Cái hiểu lầm cơ bản nhất của người Thiên Chúa giáo, tất cả các giáo phái, là họ đọc và hiểu Kinh Cựu và Tân Ước như là một chuyện kể về sự kiện lịch sử, thay vì chúng là một kết tập của ngôn từ biểu tượng. Nếu chúng ta hiểu rằng Chúa Jesus là biểu tượng của Phật tính ở trong mỗi chúng ta, thì kinh Tân Ước cũng chỉ nói lên một nội dung Đạo lý như là kinh Pháp Hoa. Nhưng điều mà chúng ta đang bàn đến liên quan đến một khối tâm thức của quần chúng Việt Nam còn đang ở trong giai đoạn rất sơ khai, ngây thơ, tình cảm chân chất, và của những đầu óc và con tim vừa mới được mở mắt, đang khao khát tâm linh qua biểu tượng và tôn giáo.

Nhưng Phật giáo – qua trí thức Phật tử - có cống hiến gì cho quần chúng đang khao khát tâm linh – hơn là “tính Không”, “vô Ngã”? Nói như Osho, đạo Phật mà đức Thích Ca Mâu Ni chuyển luân hơn hai mươi lăm thế kỷ trước, thì bây giờ đây, ở trong cộng đồng Việt ở hải ngoại hay ở quê nhà, đang bị ngừng lại. Bánh xe đạo Phật này chắc là đã đi qua Tây Âu để đánh thức một khối tâm thức mới. Nhưng tại quê hương Á Châu, tại Việt Nam, nơi Phật giáo được nuôi dưỡng cả ngàn năm nay, và trong cộng đồng trí thức Phật tử Việt ở hải ngoại, ngọn đuốc này đang bị tàn lụi, mất gần hết sinh lực. Cái còn lại là những trò chơi ngôn ngữ của giới trí thức hoài niệm chỉ muốn thảo luận một cách khô cạn và trống trải tinh thần với những khái niệm vô nghĩa.

© 2006 talawas



[1]Về vấn đề tiếng Hán Việt và những phiên giải sai lầm các khái niệm đạo Phật, xin đọc bài của Tuệ Sĩ giới thiệu cuốn Triết học Vasabandhucủa Lê Mạnh Thát ở trang nhà www.giaodiem.comsố tháng Giêng, 2006.
[2]Bản Anh ngữ của John 10, “The Jews replied, “We are not going to stone you for any good deed, but for your blasphemy. You are a mere man, claim to be god. Jesus answered, ‘Is it not written in your own law, “I said: You are gods”? Các bản Việt ngữ dịch, “Người Jiu Đa trả lời rằng: Ấy chẳng phải vì một việc lành mà chúng ta ném đá ngươi, nhưng vì lỗi lộng ngôn: Ngươi là người, mà tự xưng là Đức Chúa Trời. Đức Chúa Jesus đáp rằng: Trong luật pháp của các ngươi há chẳng chép rằng: Ta đã phán: Các ngươi là các thần hay sao?” Nếu không có một sự giải thích thì câu dịch Việt ngữ này hoàn toàn tối nghĩa và sai lạc. Đoạn “luật” mà Chúa Jesus nói đến là Psalm 82 có nói: “I say you are gods and all of you are the children of the most high” Tức là, “Ta nói rằng các ngươi là thượng đế và tất cả các ngươi là con cái của đấng tối cao”. Các nhà bình luận và phiên giải kinh thánh Thiên Chúa giáo thường coi chữ “gods” này chỉ là thần thánh, hay là chánh án (judges), trong khi ý nghĩa của nó trong văn cảnh là rất rõ: “Các ngươi cũng chính là thượng đế” - như kinh Pháp Hoa, “Các ngươi là Phật sẽ thành”.
[3]Thanh Hải và Lương Sĩ Hằng cả hai là người Việt. Tôi đã có dịp tiếp xúc và làm việc với hai vị. Thanh Hải thì xuất hiện một cách có bài bản, màu mè, trang phục đa dạng như thời trang, ngôn ngữ thanh lịch, con người bản lãnh, kiến thức đa dạng và sâu rộng. Sĩ Hằng thì hùng hồn, mạnh mẽ, charismatic, và khó hiểu. Ông sử dụng ngôn từ đầy tính chất huyền bí theo biểu tượng của Á Đông. Cả hai xứng đáng là những bậc thầy. Thanh Hải có một quần chúng đệ tử và khán giả khắp thế giới. Ảnh hưởng của Sĩ Hằng thì chỉ có trong cộng đồng người Việt ở Mỹ và Pháp. Cả hai đều bị nhiều tăng sĩ Phật giáo Việt chỉ trích và lên án, nhiều lúc nặng nề và tiêu cực quá đáng, cả về phương thức hành đạo lẫn học thuật giáo lý đạo Phật. Còn các đồ đệ Việt của họ (Thanh Hải và Sĩ Hằng), nhiều người thì quá khích và thần tượng hóa các vị này một cách cực đoan. Ví dụ, khi Thanh Hải tắm, một vài đệ tử lấy nước dơ từ đó mà uống. Trong một cuộc phỏng vấn truyền thanh trực tiếp, tôi có hỏi bà là có thực như thế, và nếu có thì tại sao bà lại cho họ làm như vậy? Thanh Hải trả lời tôi rằng, “Tôi thì đang tắm (chắc là ở một nơi tạm thời ngoài trời?), mà họ thì cứ chạy tới múc lấy nước dơ đó mà uống, tôi can cũng không được. Tôi đã bảo họ đó chỉ là nước dơ mà thôi, mà họ không thèm nghe!”. Các đệ tử của Sĩ Hằng ngồi thiền thì rung thân mình lên như bị kinh phong; có người tuyên bố là đã xuất hồn lên tầng trời nầy, cõi thiên nọ. Họ coi Sĩ Hằng như là một vị Phật đại giác ngộ. Tôi nhận thấy điều này: Hình như bất cứ cái gì hay đẹp đến đâu mà dính vào cõi quần chúng Việt thì cũng trở nên một thảm kịch buồn cười cả.
[4]Ví dụ thêm, bản Việt ngữ của Tân Ước, phát hành bởi Hội Gideon ở Việt Nam mở đầu bằng những đoạn, Kinh Thánh là “con đường cứu rỗi, đem bình an khi lo lắng, can đảm khi sợ hãi, vơi nhẹ khi đau đớn, soi dẫn khi quyết định.” Hay, “Kinh Thánh là mỏ vật báu, một lạc viên vinh hiển, một con sông lạc thú… Kinh Thánh gán cho ta trách nhiệm nặng nề hơn hết, thưởng cho công nghiên cứu khó nhọc hơn hết, lên án tất cả những ai coi thường nội dung thiêng liêng của Kinh Thánh.” Kinh Phật cũng hàm chứa những nội dung đó nhưng không bằng những ngôn ngữ đầy mệnh lệnh và đoan chắc như vậy. Sức mạnh của mỗi tôn giáo được quyết định bởi ngôn ngữ biểu tượng của nó.

(Talawas)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/04/2023(Xem: 3456)
Tôi muốn chia sẻ về mối quan hệ tôn giáo và xã hội hiện đại. Vì bản tính tự nhiên, mỗi cá nhân đều có sự cảm nhận về tự ngã. Từ đó, mỗi cá nhân đều trải qua các hiện tượng mà họ nhận thức được bằng cảm giác thống khổ, cảm xúc vui sướng hay yên tĩnh. Đây là sự thật, không cần phải trình bày tỉ mỉ nữa. Động vật cũng thế. Vì bản tính tự nhiên, tất cả chúng ta đều muốn đạt được an lạc hạnh phúc, không muốn thống khổ và bất hạnh. Ta khỏi cần phải chứng minh điều này. Trên cơ sở này, chúng ta đàm luận về quyền của mọi người được hưởng cuộc sống an lạc hạnh phúc, quyền vượt qua mọi thống khổ.
22/03/2023(Xem: 3062)
Năm 2011, chuyên mục này đã đưa ra một số chủ đề lớn, từ những phương pháp hay nhất, dành cho tăng đoàn Phật giáo với khoa học công nghệ best practices with technology for sanghas, đến việc khám phá các mối quan hệ giữa sự thật khoa học thần kinh và Phật pháp relationship between truth, neuroscience, and the Dharma. Sau đó, chúng tôi đề cập đến tính hai mặt dưới góc nhìn khoa học thần kinh duality in light of neuroscience, và bắt đầu chỉ ra những lợi ích của việc xây dựng một lý thuyết khoa học về sự văn minh a scientific theory of enlightenment. Bởi thắc mắc này đang đưa ra những chủ đề mới dịp đầu xuân này, có lẽ tôi nên nhấn mạnh điều gì đó.
18/03/2023(Xem: 5908)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
18/03/2023(Xem: 3441)
Công nghệ phát triển thay đổi cuộc sống con người, tuy nhiên sẽ thật ngây thơ khi tin rằng công nghệ chỉ mang lại lợi ích mà không phải trả giá. Một chủ đề lặp đi lặp lại trong lịch sử là sự ra đời của các công cụ và cơ bản công nghệ đổi mới, sẽ thay đổi cách chúng ta nhìn nhận bản thân và thế giới, cũng như trong đó có vai trò của chúng ta. Từ sự phát triển động cơ hơi nước, hàng không, xử lý máy tính và gần đây hơn là trí tuệ nhân tạo (AI), các công cụ và công nghệ đã cải thiện phúc lợi đáng kể và năng suất của con người nhưng không nhất thiết là phúc lợi của con người và các hệ sinh thái của thế giới.
03/02/2023(Xem: 5222)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 5900)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 4937)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 12796)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
14/12/2022(Xem: 1987)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 17733)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567