Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

DANH TỪ THƯỢNG ĐẾ VÀ DANH TỪ PHẬT TÁNH

20/06/201320:44(Xem: 5027)
DANH TỪ THƯỢNG ĐẾ VÀ DANH TỪ PHẬT TÁNH

DANH TỪ THƯỢNG ĐẾ
TRONG THIÊN CHÚA GIÁO VÀ
DANH TỪ PHẬT TÁNH TRONG PHẬT GIÁO

Tịnh Tĩnh Tỉnh

Chúng ta tuyệt đối không nên dùng danh từ Thượng Đế trong Thiên Chúa Giáo (TCG) khi giảng dạy về Phật Tánh trong Phật Giáo (PG).

Danh từ Thượng Đế (vua trên hết các vua trong tiếng Việt) hay God (trong tiếng Anh) đã được dùng trong những tôn giáo thờ Đức Chúa Trời (Thượng Đế hay God) như Công Giáo, Tin Lành, Baptist, Lutheran v.v... hoàn toàn khác hoặc có khi ngược nghĩa với danh từ Phật Tánh đã được dùng trong Phật Giáo:

1.TCG: Thượng Đế tạo ra vũ trụ này trong 7 ngày.

PG: Vũ trụ này nằm trong quy luật luân hồi, Thành Trụ Hoại Diệt, không có đầu và cũng

không có cuối - vô thủy, vô chung.

2. TCG: Thượng Đế là một hữu thể, hay nói khác đi là một ngã thể ngự trên trời cao.

PG: Phật Tánh là một trạng thái Tâm: thanh tịnh, tĩnh lặng và tỉnh giác.

3. TCG: Thượng Đế chỉ có một vị.

PG: Phật Tánh có ở trong mỗi chúng sinh. Đức Phật đã nói: "Ta là Phật đã thành, các người

là Phật sẽ thành" (Phật có nghĩa là người Giác Ngộ).

4. TCG: Người thờ Thượng Đế hoàn toàn tin vô điều kiện vào Thượng Đế và phó thác cả hồn

và xác trong tay của Thượng Đế.

PG: Người theo chân Đức Phật được Đức Phật dạy rằng: "Các người đừng tin những gì dù

điều đó là do các vị Giáo chủ nói ra; dù điều đó được nhiều người cùng nói; dù điều

đó đã được lưu truyền từ xưa đến nay ... Nhưng các ngươi hãy tin vào những điều nào

mà tự mình đã suy xét , đã chiêm nghiệm, đã thực hành và thấy rằng điều đó đem lại

lợi ích cho bản thân và mọi người”.

5. TCG: Thượng Đế có quyền ban phước, giáng họa xuống thế gian và muôn loài, có

quyền định đoạt số phận của mỗi chúng sinh, mọi hành hoạt trong ngoài của mọi

sự vật. Đời sống con người được sự lành hay chịu sự dữ, cả thảy đều tùy vào sự định

đoạt của Thượng Đế.

PG: Phật Tánh tuyệt đối thuần an lặng. Họa hay phước đều do chính từng cá thể tạo ra

cho riêng mình, làm lành gặp lành, làm ác gặp ác, và có thể chuyển đổi số phận

cho tốt hơn bằng cách gieo nhiều nhân lành.

6. TCG: Thượng Đế tạo ra thủy tổ của loài người là Adam và Eva.

PG: Phật Giáo không nói tới chuyện "thủy tổ" của loài người. Trong Phật Giáo, mọi sự

vận hành trong vũ trụ, kể cả vũ trụ, không có khởi đầu và không có kết thúc, vô

thủy, vô chung, con người và muôn vật chịu sự chi phối bởi Lý Nhân Quả, Luân Hồi,

Lý Duyên Sanh, Duyên Diệt, Lý Vô Thường, muôn vật, muôn loài đều phải trải qua

tiến trình Sinh Trụ Hoại Diệt, Thành Trụ Hoại Không, Sinh Lão Bệnh Tử.

7. TCG: Thượng Đế tạo ra loài vật để làm của ăn cho con người.

PG: Phật Giáo đề cao sự không giết hại loài vật, và dạy rằng loài vật hay súc sinh cũng là

chúng sinh, cũng cảm thọ, biết đau, biết lạnh, biết vui, biết buồn ... cũng chịu sự chi

phối bởi Sinh Tử Luân Hồi, cũng nằm trong tiến trình Sinh Lão Bệnh Tử như con

người.

Hơn thế nữa, súc sinh cũng là một cõi giới mà nếu con người hành động như súc

sinh cũng sẽ được sinh trong cõi giới tương ứng.

8. TCG: Theo thuyết Thượng Đế, con người chỉ chết một lần và sau khi chết, hoặc về Thiên

Đàng nếu sống một cuộc sống thánh thiện, mến Chúa yêu người, hoặc xuống Địa

Ngục, hoặc vào Luyện Ngục (Luyện Ngục chỉ ở trong thuyết của Công Giáo, những

người tội nhẹ thì vào Luyện Ngục. Sau khi chịu hình phạt nơi Luyện Ngục đầy đủ rồi,

thì sẽ được Thiên Chúa đưa lên Thiên Đàng. Còn nếu phạm tội nặng như giết người,

cướp của ... thì bị cho xuống Địa Ngục. Vào Thiên Đàng, Luyện Ngục hay Địa Ngục

(còn gọi là Hỏa Ngục) đều tùy vào sự phán xét của Thiên Chúa). Với TCG, thì lên

Thiên Đàng hoặc xuống Địa Ngục, chỉ một lần, và ở đó mãi mãi.

PG: Đức Phật dạy rằng, con người sau khi chết, tùy theo nghiệp nhân mà mình đã tạo, sẽ

luân hồi vào 1 trong 6 cõi: Thiên, A Tu La, Người, Súc Sinh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục. Và

trên hết thảy, Đức Phật chỉ cho con người phương cách để ra khỏi luân hồi, thoát khỏi

mọi khổ đau, an lạc trong Giác Tánh hay Phật Tánh (Phật Tánh là một quả vị do thiền

định mà hiển lộ, chứ không phải một cõi). Có thể nói, Thiên Đàng trong TCG tương

đương với cõi Thiên trong PG. Thượng Đế trong TCG không hề dạy phương cách trở

về với Phật Tánh hay Tánh Giác như ngài Gotama đã chỉ dạy: giữ Tâm Thanh Tịnh,

Tâm Vô Niệm ... Chân Tâm, Phật Tánh sẽ hiển lộ, trong sáng và tròn đầy. Đó là cảnh

giới Niết Bàn mà người con Phật phải nhắm tới. Rất tiếc là một số bài viết và bài giảng

trong PG còn cho rằng danh từ Thiên Đàng (TCG) hay Niết Bàn (PG) cũng cùng ý

nghĩa. Trong Kinh Thánh của TCG, chúng ta không thể tìm thấy ở chỗ nào nói lên cái ý

trong Tứ Niệm Xứ "Quán thân như thân, quán thọ như thọ, quán tâm như tâm, quán

pháp như pháp" như trong Phật học cả.

Trên đây, mới chỉ nêu lên một số khác biệt giữa Thượng Đế và Phật Tánh, mà chúng ta đã thấy hai danh từ này ý nghĩa hoàn toàn khác biệt, còn rất nhiều sự khác biệt khác, có khi ngược hẳn với giáo lý nhà Phật, chẳng hạn thuyết Vô Ngã, thuyết Vô Thường, thuyết Duyên Nghiệp, Thập Nhị Nhân Duyên v.v...

Có vị còn mang cả con của Thượng Đế là Jesus vào trong bài viết, bài giảng, và đặt Jesus vào vị trí cũng Giác như Đức Phật. Thượng Đế đã khác, thì con của Thượng Đế e rằng cũng cùng một nhịp điệu: ngài Jesus đã "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin", ngài lo sợ đến toát mồ hôi"Và mồ hôi Người như những hạt máu nhỏ xuống đất"và ngài cầu nguyện với Chúa cha: "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con . Tuy vậy xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha" theo Kinh Thánh(Lc. 22:39-46), ngài Jesus nói những lời này với Chúa cha (Thượng Đế) trong vườn cây Dầu vì biết mình đang bị quân lính La Mã lùng bắt và biết mình sẽ bị đóng đinh trên thập giá; trong bữa tiệc cuối cùng với đệ tử, sau khi ngài Jesus bẻ bánh mì tượng trưng cho thân ngài và rót rượu tượng trưng cho máu ngài, rồi trao cho các đệ tử cùng ăn và uống, và vì biết rằng sự sống của ngài sắp bị lấy đi qua khổ hình thập giá, ngài đã nói cùng môn đệ: "Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của Tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được" theo Kinh Thánh (Ga. 10:17-19).Vậy những hành động này, lời nói này là của một bậc Giác? Những hành động, tư tưởng này có giống với những bậc Giác "An trú trong Tâm Bất Sinh", "Thường trú trong Tâm Vô Trụ" của nhà Phật không?

Tại sao chúng ta phải dùng danh từ Thượng Đế để chỉ Phật Tánh trong những bài viết, bài giảng về những pháp của Phật? Trong khi đó, ngay trong Đạo Phật, những danh từ được dùng để chỉ Phật Tánh cũng đã được đặt ra rất nhiều: Đạo, Chân Tâm, Chân Ngã, Pháp Thân, Tự Tánh, Như Lai Tạng, Bản Lai Diện Mục, Tâm Bất Sanh, Tâm Vô Trụ, Tâm Giải Thoát, Tâm Phật, Tâm Như Như, Giác Tánh, Tâm Niết Bàn v.v... Vậy tại sao chúng ta lại cần mượn thêm một danh từ nữa để diễn tả Phật Tánh, tệ hơn nữa là danh từ mà ta mượn đó, lại hàm nghĩa khác biệt hẳn với Phật Tánh, và đã được dùng trong tôn giáo khác với ý nghĩa có khi lại hoàn toàn trái ngược, để rồi phải giải thích sự khác biệt, và nếu không giải thích, hoặc giải thích không trọn vẹn, sẽ lạc dẫn Phật Tử hiểu sai, tưởng rằng tôn giáo thờ Thượng Đế cũng giống như Đạo Phật, và như thế, có thể dẫn đến những hậu quả tai hại cho chính người Phật Tử nói riêng (người Phật Tử chưa liễu nghĩa giáo lý nhà Phật sẽ dễ dàng bỏ Đạo Phật, vì nghĩ rằng theo tôn giáo thờ Thượng Đế cũng thế - trong hôn nhân khác tôn giáo chẳng hạn, hoặc theo sự chiêu dụ của tín đồ thờ Thượng Đế, nhất là lúc sắp lâm chung), và làm trì trệ cho sự tiến bộ tâm thức của con người nói chung.

Tịnh Tĩnh Tỉnh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/10/2010(Xem: 4220)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài. Phạm vi hoạt động của nó không chỉ giới hạn chung quanh những tàng kinh các, hay những pháp đường của các Tăng viện; mà còn ở cả nơi triều đình, công sảnh, và bấtcứ nơi nào mà mọi người có thể tụ tập ít nhất là hai người, trong tấtcả sinh hoạt nhân gian. Thêm vào đó là những biến chuyển qua các thời đại, sự dị biệt của các dân tộc...
13/10/2010(Xem: 6258)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
11/10/2010(Xem: 7272)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
11/10/2010(Xem: 5786)
Trong khi Phật giáo càng ngày càng trở nên một cao trào triết học và tâm linh (spirituality) cho giới trí thức Tây phương thì Phật giáo Việt Nam (PGVN) đang đi vào thoái trào trên phương diện tín ngưỡng (religion) đối với quần chúng Việt Nam. Sự thoái trào, hay “mạt pháp”, này được biểu lộ qua hai hiện tượng: 1. Trí thức Phật tử Việt ở hải ngoại bỏ chùa để theo tu học các giáo phái khác, và 2. quần chúng ở trong nước, ở các vùng thôn quê vốn có ảnh hưởng Phật giáo, nay đi theo đạo Tin lành ngày càng đông.
08/10/2010(Xem: 15139)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 4629)
Tôi hành thiền Vipassanà không theo cách rập khuôn một bài bản cố định, có điều kiện của các thiền sư, thiền viện hay thiền phái nổi tiếng nào, dù biết rằng những phương pháp vận dụng quy mô ấy đều đem lại lợi lạc nhất định cho rất nhiều hành giả và bản thân tôi cũng đã học hỏi từ đó rất nhiều.
07/10/2010(Xem: 11726)
Tác phẩm “Triết học có và không của Phật giáo ở Ấn Độ” mà độc giả đang cầm trên tay là tác phẩm gồm nhiều bài viết ngắn, được viết trong thời gian tác giả còn đang du học tại Đài Loan (Taiwan), với nội dung chủ yếu phân tích giải thích tư tưởng có(bhŒva) và không(Sènyatˆ) là hai hệ thống tư tưởng lớn của Phật giáo ở Ấn Độ, đặc biệt thuyết minh về mối quan hệ thiết thân giữa hai học thuyết này. ..
06/10/2010(Xem: 4470)
Bất biến tùy duyên. Trong Tinh Hoa Triết học Phật giáo (Essentials of Buddhist Philosophy), Tuệ Sỹ dịch, Junjiro Takakusu tóm lược bốn thuyết duyên khởi sắp hạng theo thứ tự từ thời Pháp Tạng từ Nghiệp cảm duyên khởi, đến A-lại-da duyên khởi, Chân như duyên khởi, và cuối cùng, Pháp giới duyên khởi.
29/09/2010(Xem: 6404)
Đối tượng của nhận thức không phải là cái cụ thể, mà là cái trừu tượng. Một sự thể, nếu không được biểu thị bằng những thuộc tính, không thể hiện hữu như một đối tượng.
29/09/2010(Xem: 10028)
Tác-phẩm của Trần-Thái-Tông còn lưu truyền đến nay chỉ gồm có Bộ-Khóa-Hư-Lục và hai bài thơ sót lại của quyển Trần-Thái-Tông ngự-tập đã thất-lạc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]