Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiến Trình Phát Triển Phật Giáo

04/01/201117:31(Xem: 5701)
Tiến Trình Phát Triển Phật Giáo

Duc The Ton 1

TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO 

Trần Quang Thuận


Nói đến tiến trình phát triển Phật giáo là nói đến lộ trình diễntiến của Phật giáo từ lúc Phật nói bài pháp đầu tiên sau khi thành đạo cho đến bây giờ, suốt thời gian trên hai mươi lăm thế kỷ; là nói đến nơi Phật thuyết  pháp  lần đầu  tiên cho nhóm  Kiều-trần-như ở vườn Lộc Uyển cho đến  bây giờ, trải qua một   không gian rộng lớn từ lưu vực sông Hằng ở vùng  Ấn Độ, đến miền Tây, vượt khỏi biên thùy Ấn Độ, đến Hy Lạp, Ai Cập, qua những sa mạc mênh mông, những dãy núi cao vòi vọi, những  đồng bằng bát ngát, từ Trung Á đến Trung QuốcViệt NamTây TạngĐại HànNhật Bản, xuống Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cao Miên, Mã Lai, vượt Địa Trung Hải đến Âu châu, vượt Thái Bình Dương đến Úc châu, Mỹ Quốc. vượt Ấn Độ Dương đến Phi châu, vượt Đại Tây Dương đến Trung Mỹ, Nam Mỹ.

Nói đến lộ trình là nói đến những đoạn đường bằng phẳng, đầy hoa  thơm  cỏ lạ, dân  cư đông  đúc, hiền hòa vui vẻ, kinh tế phồn  thịnh, văn hóa rực rỡ; là nói đến những  đoạn đường gồ ghề khúc khuỷu, lên thác xuống ghềnh, dân chúng khổ sở, nghi kỵ, hung bạo; là nói đến những đoạn đường xuyên quanúi tuyết, đồng cỏ mênh  mông, dân cư thưa thớt; là nói đến  những đoạn  đường  băng  qua  sa mạc hoang  vu, không  có bóng người…

Trong tiến  trình  phát  triển,  Phật  giáo  đã  đi qua những đoạn đường đó. Ta hãy xem Phật giáo đã được đón nhận như thế nào, tô điểm những đoạn đường đó như thế nào; Đức Phật, các bậc thánh Tăng đã hoằng truyền đạo pháp bằng phương thức nào, đem lại mức độ thành quả ra sao.

Nghiên cứu lộ trình phát triển Phật giáo, các học giả Trung Hoa chia làm năm thời kỳ (Ngũ thời Thuyết giáo), chư Tổ dựa vào tín tâm và thành quả chia làm ba thời kỳ (Chánh phápTượng pháp và Mạt pháp). Ở đây, chúng tôi căn cứ vào bối cảnh lịch sử, địa dư, phát triển tông phái… chia làm bốn thời kỳ. Cách phân chia thời kỳ một cách tổng quát như thế này chỉ có giá trị tương đối; vì trên thực tếranh giớithời kỳ chồng  chất lên nhau, có tính cách máy móc, không hoàn toàn xác đáng. Bốn thời kỳ ấy là:

  1. Thời kỳ I có thể đặt tên là Thời kỳ Phật giáo Nguyên thủythời kỳ Phật tại thế cho đến Đại hội Kết tập II, sau khi Phật nhập Niết-bàn 100 năm.
  2. 2. Thời kỳ II từ sau Đại hội Kết tập II đến Đại hội Kết tập III, thời Phật giáo Bộ phái, từ năm 100 đến năm 400 sau khi Phật nhập Niết-bàn. Trong thời kỳ này Phật giáo lúc đầu chia làm hai bộ pháiTrưởng lão bộ và Đại chúng bộ, sau biến thành hai mươi phái, thuộc Tiểu thừa Phật giáo với Thượng tọa bộ lấy Sri Lanka làm trung tâmthuyết Nhất thiết hữu bộ lấy Kashmir làm căn cứ địa và Đại chúng bộ lấy Mathura làm địa điểm chính.
  3. Thời kỳ III từ sau Đại hội Kết tập III đến thế kỷ thứ XII, thời Phật giáo Thượng tọa bộ phát triển ở phương Nam, thời Phật giáo Đại thừaMật giáoKim Cang thừa xuất hiện ở phương Bắc, đồng thời sự vắng mặt dần dần của Phật giáo tại xứ Phật.
  4. Thời kỳ IV, thời kỳ Phật giáo suy thoái từ thế kỷ thứ XIII đến thế kỷ thứ XIX và thời kỳ phục hưngtừ cuối thế kỷ thứ XIX cho đến nay.

Trên phương  diện địa dư, thời kỳ I, Phật giáo đóng khung trong lãnh thổ Ấn Độđặc biệt dọc theo đồng bằng sông HằngThời kỳ II, Phật giáo truyền khắp lãnh thổ Ấn ĐộThời kỳ III, Phật giáo trở thành quốc giáo tại Ấn Độtrở thành một tôn giáo hoàn vũ, truyền đến các nước vùng Cận Đông, Đông Á, Viễn Đông, đặc biệt tại Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Cao Miên, Lào, Mã Lai, Nam Dương, Trung QuốcViệt NamTây TạngĐại HànNhật BảnThời kỳ IV, Phật giáo không còn ngự trị trên đất Ấn, một phần vì sự xâm lăng của Hồi giáo từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ XII, Tăng Ni bị giết, các trung tâm Phật giáo như Nalanda, Vikramashila, Odantapura… bị thiêu  hủy; phần  khác, muốn  phổ  cập Phật đạo  giữa nhân gianPhật giáo sử dụng quá nhiều biểu tượng và nghi lễ Ấn Độ giáo, bị Ấn Độ giáo cải cách tiếm dụng, làm mất đặc tính của mình. Vào cuối thế kỷ thứ XII, Phật giáo bị Ấn Độ giáo đồng hóa, chỉ còn lại vài trung tâm biệt lập ở Magadha, Bengal, Orissa, Nam Ấn Độ; nhưng Phật giáo lúc này đã tràn đến các nước khác ở Á châu để rồi từ đó đến Âu châu và Mỹ châu.

Trên phương  diện giáo lýthời kỳ I, thời đại Phật giáo Nguyên thủy, những lời thuyết pháp của Phật đều trực tiếp, minh bạchdễ hiểu, không có gì khúc mắc, bí ẩnMục đích Phật nói pháp  không nhằm  vào việc trao truyền trí thức cho hàng đệ tử, không bắt họ cố thủ giáo điềuMục đích chính của Ngài là chuyển mê khai ngộ.

Ở thời kỳ II, thời Phật giáo Bộ phái, thời A-tỳ-đạt-ma (A-tỳ-đàm: Abhidhamma) thì mọi vấn đề đều được định nghĩa, phân loại, rồi đứng trên lập trường, trên góc độ khác nhau để thuyết  minh (Chư môn Phân biệt), như Phật Âm (Buddhaghosa)  nhận  định: “Trong Kinh, Ngũ Uẩn được giải thích một cách tổng hợp, trong A-tỳ-đàm thì dùng Kinh, Luận, Vấn đáp để thuyết minh một cách chi ly. Thập nhị xứThập bát giới, Tứ đế… cũng thế”. Đây là thời kỳ Phân tâm học Phật giáo phát triển mạnh, đi sâu vào bản thể(Svabhava).

Trong thời kỳ I, thời Phật giáo Nguyên thủyĐức Phật và hàng  đệ tử thân  tín của Ngài khi quan  sát bất kỳ vấn đề gì đều lấy con người làm tiêu chuẩn và hướng đến thực hiện lý tưởng, chứ không phải quan sát để quan sátlý luận để lý luận. Do đó, những vấn đề như thế giới là hữu biên hay vô biên, thể xác và linh hồn là hai hay là một… Phật giữ im lặngChủ đích của Phật là làm cho những  người nghe  pháp  cũng được giải thoát như chính Ngài.  Vì vậyvấn đề gì không trực tiếp đưa đến  việc thực hiện giải thoát  Niết-bàn, thì dầu vấn đề ấy có hấp dẫn mấy chăng nữa, Phật cũng không chú ý lắm, không bỏ thì giờ lãng phí luận bàn. Danh từ Phật học gọi là hý luậnlý luận mà chơi, lý luận để làm thỏa mãn sự tò mò, lý luận để chứng minh mức độ hiểu biết. Phật cứu chúng  sinh gấp rút như cứu người bị tên độc bắn. Việc trước mắt là phải chữa trị vết thương không cần tìm hiểu mũi tên từ đâu bắn tới, do ai bắn, tại sao bắn… Phật khuyên hàng đệ tử đừng bắt chước các Takki, các nhà ngụy biện đương thời mải mê lýluận mà quên thực tế. Không vì lý luận mà nghiên  cứu lý luận, không vì tư biện mà nghiên cứu  tư  biện  như  Áo nghĩa  thư  (Upanishads, Nhất Nguyên luận), Số luận (Samkhya, Nhị nguyên  luận), Thắng luận  (Vaisesika, Tự  nhiên  luận)  đương  thời, mà lý luận hay triết học phải được thực tế hóa. Do đó, vũ trụ quan  của Phật giáo là lấy nhân  sinh quan làm chủ điểm; và nhân sinh ở đây, chân tướng của nó không phải là một giả tưởng hình nhi thượng  Phạm (Brahma), Thần (Shiva, Vishnu). Phương phápkhảo sát của Phật không xuất phát từ hình nhi thượng học mà có thể nói là khoa học, không phải diễn dịch mà quy nạp, đặt nặng hiện tượng hơn bản thểsinh diệt hơn trường cửu (Xem Tiểu thừa Phật giáoTư tưởng luận, tr.21-23, Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận, tr. 74-79, bản dịch Thích Quảng Độ).

Trong thời kỳ II lấy những  lời thí dụ của Phật làm luận  chứng. Thí dụ,  trong  Tạp A-hàm quyển  38, Đại  Tạng 2, tr. 278, phần  hạ, Phật thường  nói “Không một hương thơm nào có thể bay ngược gió, duy chỉ có hương thơm của sự giữ giới thanh tịnh, dù thuận hay nghịch, không nơi nào không bay tới”. Câu-xá luận quyển  11 cho rằng hương dù ngược gió cũng có sức xông tới. Hương ở đây không còn là hương thơm thông thường xuất phát  từ hoa, lá, hương trầm… mà là hương của giải thoátgiác ngộ. Từ đó, vấn đề gì cũng được đặt ra và cố gắng giải đáp: Tại sao núi cao, biển rộng, tại sao động vật đi ngang mà người đi dọc… Ở đây, ta thấy lời dạy của Phật được hiểu theo ý hơn là theo lời. Văn tự, ngôn  thuyết  chỉ là phương  tiện chứ không phải cứu cánh, một đoạn đường khá xa mà chư Tổ đã đạt được trong  tiến  trình  phát  triển  Phật  giáo. Chính từ khởi điểm này mà giáo lý Phật được diễn dịch, được thâm nhập từ nhiều góc độ khác nhau: bậc thượng căn hiểu theo thượng căn, bậc trung căn theo trung căn, bậc hạ căn theo hạ căn; giống như cây cỏ tùy theo khả năng mà chứa đựng hay thọ nhận nước mưa. Chúng sinh tùy theo căn cơ thọ nhận pháp vũ.

Trong  thời kỳ I,  thời Phật giáo Nguyên thủy,  tâm là chủ yếu và phương  pháp  nắm bắt tâm là quan sátduyên khởi, một tức hết thảy, hết thảy là một. Nhưng vào thời kỳ II, thời Phật giáo Bộ phái, thời Phật giáo A- tỳ-đàm thì chủ yếu là thuyết  minh sự thật. Trong thời kỳ I, Kinh, Luật là quan trọng; trong thời kỳII, Luận là chủ yếu.

Trong thời kỳ II, vào khoảng 100 năm sau Phật nhập diệtPhật giáo Nguyên thủy bắt đầu chia thành hai bộ pháiTrưởng lão bộ và Đại chúng bộ. Thật ra, trong thời kỳ Phật còn tại thế, khuynh hướng phân  hóa đã xuất hiện qua vụ tranh chấp giữa chư tăng tại Kiều-thượng- di (Kausambi) và vụ Đề-bà-đạt-đa  vào hạ năm thứ 36 sau khi Phật thành  đạo, nhưng  nhờ đức độ của Phật quá vĩ đại nên sự thống  nhất  của Tăng-già vẫn được duy trì. Sau khi Phật nhập  diệt trong  vòng 100 năm, nhờ đức độ của các bậc Trưởng lão nên Giáo đoàn vẫn không bị tan rã. Nhưng sau 100 năm, sức cảm hóa của các bậc Tôn túc ngày một suy giảm, sự giải thích Giáo nghĩa (Kinh) và Giới luật (Luật) có nhiều điểm bất đồng, vì Phật giáo đã lan rộng đến nhiều địa phương, chịu ảnh hưởng văn hóa, phong  tục, tập quán, phong  thổ địa phương, mà Phật giáo lại không có những định chế cần thiết và thỏa đáng  để giải quyết dị đồng, nên đi đến phân hóa; biểu lộ trên bình diện Giới luật có mười điểm dị biệt gọi là Thập sự phi pháp, trên bình diện Giáo Lý có năm điều liên quan đến quả vị A-la-hán , gọi là Ngũ sựĐại hội Kết tập II được triệu tập để san định Tam tạngđồng thời giải quyết những dị biệt. Đại hội không mang lại kết quả mong muốn nên chia làm hai bộ pháiTrưởng lão bộ họp tại Phệ-xá-ly với 700 đại Tăng thuộc Trưởng lão bộtham gia; một đại hội khác được tổ chức tại Ma-kiệt-đà do hàng  đại Tăng thuộc Đại chúng bộ tham gia.

Vào khoảng  200 năm sau Phật nhập  diệt, theo  Dị bộ Tôn luân luận, từ Đại chúng bộ phát sinh tám phái. Vào khoảng  từ 300 đến 400 năm sau Phật nhập  diệt, từ Trưởng lão bộ phát sinh mười phái; tổng cộng là hai mươi phái nếu kể luôn cả hai giáo phái chính là Trưởng lão bộ và Đại chúng bộ. Đây là cách phân loại của phái Thuyết Nhất thiết hữu gọi tắt là Hữu Phái. Theo số phân loại của phái Thương tọa của Tích Lan (Trưởng lão bộ khi truyền đến Tích Lan trở thành Thương tọa bộ của Nam phương) thì Thương tọa bộ gồm mười một phái, Đại chúng  bộ gồm năm phái, tổng cộng là mười tám phái nếu kể luôn Thương tọa bộ và Đại chúng bộ.

Phật giáo Bộ phái (Theo  Dị bộ Tôn luân luận của Thuyết  Nhất thiết Hữu Bộ)

Đại chúng  bộ (Mahasanghika) sau Phật nhập  diệt chừng 200 năm, phát xuất các giáo phái sau:

  1. Nhất Thuyết bộ (Ekavyavahàarika; 2. Thuyết Xuất thế bộ (Lakattaravadina); 3. Kế Dận bộ (Khôi Sơn trụ bộ, Kaukukkutika); 4. Đa văn bộ (Bahusrytiyaka); 5. Thuyết Giả bộ (Phân Biệt Thuyết bộ, Prajnapativadina); 6. Chế Đa Sơn bộ (Caityasaila); 7. Tây Sơn thụ bộ (Aparasaila);
  2. Bắc Sơn thụ bộ (Uttarasaila).

Trưởng lão bộ (Sthavira) sau trở thành Tuyết sơn bộ (Haimavàra), sau Phật nhập  diệt chừng 300-400 năm, phát xuất các giáo phái sau:

  1. Thuyết Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada), còn gọi làThuyết Nhân bộ (Hetuvada); 2. Độc tử bộ(Vatsiputriya);
  1. Pháp thượng bộ  (Dharmottariya);  4. Hiển vũ  bộ (Bhadrayàniya); 5. Chính lượng  bộ  (Sammitiya); Mật lâm sơn bộ (Sandagirika); 7. Hóa địa bộ (Mahisasaka);
  2. Pháp tạng  bộ  (Dharmaguptaka);   Ẩm quang   bộ (Kasiyapiya) còn gọi là Thiện tuế  bộ (Suvarsaka); 10. Kinh lượng bộ (Sautrantika) còn gọi là Thuyết chuyển bộ (Samkrantivàda).

Theo Đảo sử Tích Lan

Từ Thương tọa bộ phát xuất:

  1. Bạt Xà Tử bộ (Độc Tử bộ); 2. Chính Lượng bộ; 3. Mật lâm sơn bộ (Lục thành bộ); 4. Hiển thừa bộ; 5. Pháp thượng bộ; 6. Hóa địa bộ; 7. Pháp tạng bộ; 8. Nhất thiết hữu bộ; 9. Ca diếp bộ (Ẩm quang bộ); 10, Thuyết chuyển bộ. 11. Kinh lượng bộ.

Từ Đại chúng bộ xuất phát:

  1. Chế đa sơn bộ; 2. Nhất thuyết bộ; 3. Ngưu tôn bộ (Kế dận hay Khôi sơn trụ bộ); 4. Thuyết Giả bộ; 5. Đa văn bộ.

Ngoài 18 bộ trên, Đảo sử Tích Lan còn đề cập đến sáu phái của Tuyết sơn bộ (Thương tọa bộ), đó là:

  1. Ấn-đa-lạt; b. Vương sơn; c. Nghĩa thành; d. Đông sơn; e. Tây sơn; f. Tây sơn Vương.

Nói một cách tổng quát, hệ thống Thương tọa bộ có khuynh hướng bảo thủduy trì và bảo vệ truyền thốnghệ thống Đại chúng bộ thì lấy lý tưởng hay chủ đích làm  phương châmTuy nhiên, nếu đi sâu vào chủ trương của các phái, chúng  ta thấy có những  phái thuộc Thương tọa  bộ lại rất cấp tiến như Hữu phái, có những  phái thuộc Đại chúng bộ lại rất bảo thủ như Đa văn bộ. Mỗi hệ thống bộ phái đều có Tam tạng kinh điển riêng. Tam tạng của hệ thống bộ phái Nam phương của Tiểu thừa viết bằng tiếng Pali còn được bảo trì nguyên  vẹn; còn Tam tạng  của hệ thống  bộ phái Bắc phương  của Tiểu thừa viết bằng chữ Sanskrit, phần nhiều của Hữu phái, vì chiến tranh, vì ngoại xâm chủ trương tiêu diệt kinh, tượng, chùa chiền Phật giáo, nên  không  còn nguyên vẹn, chỉ còn dịch bản Trung Hoa, Tây Tạng.

Thời kỳ III từ đại hội Kết tập III đến Đại hội Kết tập IV và về sau, từ thế kỷ III trước kỷ nguyên  đến thế kỷ XII sau kỷ nguyên,  đánh  dấu  sự phát  triển của Nam phương Phật giáo, sự xuất hiện của Đại thừa, Mật thừa, Kim cang thừa, sự suy thoái của Phật giáo Ấn Độ tại đất Phật.

Trong thời kỳ II, chư Tổ đi sâu vào bản thểcon đường giải thoát chỉ có thể đạt được nếu chứng đắcthể hiện bản thể chân nhưtự tánh thanh tịnhThời kỳ III, hướng về vũ trụvạn hữuthời kỳ của Đại thừa. Ánh sáng giác ngộ  dựa vào sự hòa hợp, dung  nạp  giữa con người với vũ trụđồng thời sử dụngnhững  phương  thức cổ truyền phù phép  để đạt được mục tiêu bí ẩnthời kỳ của Mật tông, của Kim cang thừa.

Thời kỳ IV từ thế kỷ XIII đến naythời kỳ Phật giáo suy thoái sau thế kỷ thứ XV đến XVIII và thời kỳ Phật giáo phục hưng từ cuối thế kỷ XIX đến naythời kỳ Phật giáo lan truyền đến Âu, Mỹ, Úc, Phi châu; thời kỳ của Cách mạng Kỹ nghệ, Cách mạng Chính trị, Cách mạng Văn hóaCách mạng Tin học, Thành thị hóa, Chuyên môn hóa, Hoàn cầu hóa, Thời kỳ Khủng bố, Hiểm họa Nguyên tử.

Thời kỳ IV, tinh thần  Phật giáo đi sâu vào văn hóa dân  tộc để trở thành  nền  tảng  văn hóaxã hội của những quốc gia chịu ảnh hưởng Phật giáo, hứng chịu thử thách của những cuộc cách mạng dồn dập tới và đương đầu với những nền văn minh xa lạ.

Trên phương  diện chứng đắcquan niệm giác ngộ, mẫu  người giác ngộ  của từng  thời kỳ không  giống nhau. Thời kỳ I, con người lý tưởng, bậc thánh nhân lý tưởng A-la-hán, không còn đắm trước trần thếhoàn toàn cách biệt trần thế, không còn lặn lội trong cảnh ta-bà, luân hồi sinh tửThời kỳ II, mẫu người lý tưởng là Bồ-tát, vị đạo sư tình nguyện độ tận chúng sinh trước khi chứng  thành  Phật quảThời kỳ III,  mẫu  người lý tưởng là Siddha, vị tôn sư hòa hợp với vũ trụvạn hữu, không đối nghịch, không phân cách, có thể điều khiển nội lực và tha lực, điều khiển sức mạnh tâm linh bên trong, sức mạnh vũ trụ bên ngoài theo sở nguyện. Mẫu người lý tưởng của thời kỳ IV là anh hùng dân tộc, hòa mình với nhịp sống nhân  gian, thiên nhiều về xã hội hơn là nếp sống phản tỉnh nội tâm.

Trần Quang Thuận



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2015(Xem: 21365)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 18926)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
15/12/2014(Xem: 10947)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây, nơi mà chúng ta đã có những tôn giáo của chúng ta, vậy thì tại sao chúng ta cần Phật Giáo? Tôi nghĩ thật quan trọng để hiểu rằng khi chúng ta nói về Phật Giáo, chúng ta có nhiều phương diện khác nhau đối với Phật Giáo. Đấy là những gì chúng ta có thể gọi là khoa học Phật Giáo, tâm lý học Phật Giáo, và tín ngưỡng Phật Giáo:
11/12/2014(Xem: 5909)
Sư nói: - Phật cùng chúng sinh một tâm không khác. Tỷ như hư không, không tạp loạn, không hư hoại. Như vầng nhật lớn chiếu khắp thiên hạ; khi mặt trời lên chiếu sáng khắp nơi, hư không chưa từng sáng. Lúc mặt trời lặn u tối khắp nơi, hư không chưa từng tối. Cảnh sáng tối tự tranh nhau, còn tính của hư không thì rỗng rang không thay đổi.
27/11/2014(Xem: 12514)
Các phương đông, nam, tây, bắc, trên, dưới gọi là “vũ”, tức chỉ không gian vô hạn; từ ngàn xưa đến ngày nay gọi là “trụ”, tức chỉ thời gian vô hạn. Trong triết học gọi là thế giới, tức chỉ tất cả vật chất và toàn bộ hình thức tồn tại của nó. “Vũ trụ” của Phật giáo cũng bao hàm tứ duy (đông nam tây bắc) thượng hạ, quá khứ, hiện tại và vị lai, đồng thời dung chứa thế gian hữu tình vô lượng vô số, và khí thế gian rộng lớn mênh mông. Từ xưa đến nay, con người không ngừng thảo luận và nghiên cứu về sự tồn tại bí ẩn của vũ trụ; từ trong thần thoại của thuở hồng hoang đến sự phát hiện lần lượt của hệ thái dương, hệ ngân hà; sự biến chuyển từng ngày của khoa học khiến cho nhân loại bừng sáng và hiểu ra rằng thời gian và không gian (thời không), hữu tình, vật chất đều tự nhiên rộng lớn vô cùng, vượt xa ngoài phạm trù có thể hiểu biết của loài người.
25/11/2014(Xem: 10942)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách mang tựa Con tim giải thoát (A Heart Released) của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949). Ajahn Mun và thầy của ông là Ajahn Sao (1861-1941) là những người đã tái lập "Truyền thống tu trong rừng", một phép tu thật khắc khổ và nghiêm túc, nêu cao lý tưởng của một cuộc sống khất thực không nhà của thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế. Vị đại sư Ajahn Chah - mà người Thái tôn thờ như người cha sinh ra mình - thuộc thế hệ thứ hai của truyền thống này, và vị thầy của ông không ai khác hơn là Ajahn Mun.
19/11/2014(Xem: 10862)
Có một số người học Phật thích tìm kiếm, thu thập những tư tưởng cao siêu, từ đó đem ra lý giải, phân tích rất hay nhưng phần hạ thủ công phu, tu tập cụ thể như thế nào lại không nghe nói tới! Họ đã quên rằng, kiến thức ấy chỉ là âm bản, chỉ là khái niệm, không phải là cái thực. Cái thực ấy phải tự mình chứng nghiệm. Cái mà mình chứng nghiệm mới là cái thực của mình.
19/11/2014(Xem: 13473)
Văn học là một trong những phương thức biểu đạt tình cảm và trí thức của loài người. Một tác phẩm văn học hay, không chỉ tạo ra tiếng vang rộng lớn tại thời điểm và địa phương nào đó, thậm chí nó có khả năng siêu vượt biên giới thời-không, dẫn dắt nhân tâm bước vào cảnh giới chân- thiện- mỹ. Trong Phật giáo có rất nhiều tác phẩm chính là đại diện cho loại hình này; đặc biệt chính bản thân Đức Phật cũng là nhà văn học tài trí mẫn tiệp, trí tuệ siêu quần.
16/11/2014(Xem: 15257)
Lý thuyết nòng cốt của Phật giáo về sự cấu tạo con người và vũ trụ là năm uẩn. Uẩn có nghĩa là sự chứa nhóm, tích tụ: 5 uẩn là 5 nhóm tạo thành con người. Sở dĩ gọi “nhóm” là vì: 1) Tâm vật không rời nhau, tạo thành một nhóm gọi là uẩn. 2) Gồm nhiều thứ khác nhau họp lại, như sắc uẩn là nhóm vật chất gồm 4 đại địa thủy hỏa phong (chất cứng, chất lỏng, hơi nóng, chuyển động) và những vật do 4 đại tạo thành. 3) Mỗi một nhóm trong 5 uẩn có đặc tính lôi kéo nhóm khác, như sắc uẩn kéo theo thọ, thọ kéo theo tưởng, tưởng kéo theo hành... 4) và cuối cùng ý nghĩa thâm thúy nhất của uẩn như kinh Bát nhã nói, là: “kết tụ sự đau khổ”.
15/11/2014(Xem: 20261)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]