Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhã Vũ Trụ Stephen Kawking và 10 câu hỏi của tạp chí Times

09/11/201004:48(Xem: 7051)
Nhã Vũ Trụ Stephen Kawking và 10 câu hỏi của tạp chí Times

NHÀ VŨ TRỤ HỌC STEPHEN HAWKING
VÀ MƯỜI CÂU HỎI CỦA TẠP CHÍ TIME

Time Magazine / Trí Tánh dịch

Stephen William Hawking, sinh ngày 8 tháng Giêng năm 1942 là một nhà Vật lý Lý thuyết người Anh, đồng thời cũng là một nhà Vũ trụ học nỗi tiếng nhờ các tác phẩm khoa học và các lần ông xuất hiện trước quần chúng.. Ông là Hội viên Danh dự của Hội Nghệ thuật Hoàng gia Anh (Royal Society of Arts), Hội viên vĩnh viễn của Viện Khoa học Giáo hoàng (Pontifical Academy of Sciences) và vào năm 2009, được trao tặng Huy chương Tổng thống về Tự Do là huy chương dân sự cao quý nhất của Mỹ.

Ông Hawking là giáo sư Toán tại Đại học Cambridge trong 30 năm (1979-2009), ngồi ở ghế và lấy danh vị giáo sư mà ông Issac Newton đã từng ngồi trước đó. Ông cũng là Giáo sư Danh dự tại Đại học Gonville và Caius College ở Cambridgevà là Khoa trưởng về Nghiên cứu Vật lý Lý thuyết tại Viện Perimeter Institute for Theoretical Physicsở Waterloo, bang 0Ontario, Canada.

Ông được biết đến nhờ những đóng góp trong lãnh vực Vũ trụ học và về môn Trọng lực lượng tử (quantum gravity), nhất là trong môi trường Lỗ đen (black holes). Ông cũng thành công với những tác phẩm khoa học phổ thông đề cập đến lý thuyết của riêng ông hay của vũ trụ học nói chung. Ba trong số nhiều tác phẩm nỗi tiếng của ông là A Brief History of Time (Bantam, Press 1988), The Universe In A Nutshell (Bantam Press, 2001) và mới đây nhất, viết chung với Leonard Mlodinow, là The Grand Design (Bantam Press, 2010).




VNE-Hawking-6524-1510305248

Về cơn bệnh ngặt nghèo và về những phát minh và cống hiến cho tri thức khoa học nhân loại của ông, xin xem sơ lược trong Wikipedia: http://en.wikipedia.org/wiki/-Stephen_Hawking

Còn về tôn giáo, nhất là những tôn giáo tin vào một Chúa Trời độc thần của Tây phương,trong các tác phẩm đầu tiên, ông dùng từ “Chúa” theo nghĩa ẫn dụ (metaphorical) nhưng như được trình bày trong A Brief History of Time, ông cũng cho rằng không cần thiết phải có sự hiện hữu của Chúa mới giải thích được nguồn gốc của vũ trụ (the existence of God was unnecessary to explain the origin of the universe). Tuy nhiên, trong tác phẩm mới nhất, The Grand Design, cũng như trong cuộc phỏng vấn với báo Telegraphvà chương trình “Thiên tài của Anh quốc” (Genius of Britain) của Kênh truyền hình số 4, ông đã giãi thích rõ hơn rằng ông “không tin vào một Chúa nhân cách hóa("not believe in a personal God."). Ông viết rằng “Câu hỏi là: Cách thế mà vũ trụ khởi đầu thì do Chúa lựa chọn vì những lý do mà chúng ta không hiểu nỗi, hay vì được xác định bởi các định luật của khoa học ? Tôi tin là vì các định luật khoa học”. Ông nói thêm: “Vì có những định luật như định luật về Trong lực nên Vũ trụ có thể và sẽ tự sinh từ hư không” ("Because there is a law such as gravity, the Universe can and will create itself from nothing.").

Trong một cuộc phỏng vấn của chương trình truyền hình ABC(Mỹ) vào ngày 7 tháng 6 năm 2010, ông đã so sánh tôn giáo và khoa học như sau: “Có một sự khác biệt cơ bản giữa tôn giáo, vốn đặt cơ sở trên quyền lực [áp đặt tín điều, niềm tin], [đối chọi với] khoa học, đặt cơ sở trên quan sát và lý trí. [Đó là] Khoa học sẽ thắng vì khoa học làm có kết quả“ (Hawking compared religion and science in 2010, saying: "There is a fundamental difference between religion, which is based on authority [imposed dogma, faith], [as opposed to] science, which is based on observation and reason. Science will win because it works.”)

hawking04Mới đây nhất, tuần san TIME của Mỹ số ra ngày 15 tháng 11 năm 2010 , trong mục “10 Questions”, một diễn đàn để độc giả khắp thế giới đặt câu hỏi trực tuyến đến các nhân vật nỗi tiếng, đã đăng kếtquả độc giả chất vấn ông Stephen Hawking qua 10 câu hỏi sau đây:

1- Nếu Chúa Trời không hiện hữu, tại sao quan niệm về sự hiện hữu [của Chúa Trời] đó lại trở nên khá phổ thông ?Basanta Borah, Basel, SWTZERLAND.

Tôi không khẳng định rằng Chúa Trời thì không hiện hữu. Chúa Trời là cái danh xưng mà người ta đặt cho Lý do vì sao chúng ta ở đây. Nhưng tôi tin rằng lý do đó là những định luật vật lý chứ không phải một người nào đó mà ta có thể có những quan hệ riêng tư. Một loại Chúa Trời chung chung (An impersonal God)

2- Vũ trụ có biên giới không ? Nếu có, thì ngoài biên giới đó là cái gì ? Paul Pearson, Hull, ENGLAND

Những quan sát xác nhận rằng vũ trụ giãn nở với một tốc độ càng lúc càng gia tăng. Vũ trụ sẽ giãn nở mãi mãi, trống rỗng hơn và tối tăm hơn. Tuy vũ trụ không có một tận cùng nhưng nó lại có một khởi đầu tại Big Bang. Người ta có thể hỏi vậy thì trước đó là gì, câu trả lời là trước Big Bang thì không có gì cả, giống như không có gì ở phía Nam của Nam Cực vậy.

3- Ông có nghĩ rằng nền văn minh của chúng ta tồn tại đủ lâu để lan vào được trong không gian xa vời không ?Harvey Bethea, Stone Mountain, bang GEORGIA

Tôi nghĩ rằng chúng ta có nhiều hy vọng tồn tại đủ lâu để chinh phục Thái Dương hệ. Tuy nhiên, trong hệ nầy, không đâu phù hợp với chúng ta hơn Trái Đất, do đó, tôi không rõ là liệu chúng ta còn hiện hữu không khi mà trái đất không còn phù hợp cho cuộc sống của chúng ta nữa. Để bảo đảm sự sống sót lâu dài, chúng ta phải lên những ngôi sao. Hãy hy vọng rằng chúng ta còn sống sót cho đến ngày đó.

4- Nếu ông có thể nói chuyện với ông Albert Einstein, ông sẽ nói gì ?Ju Huang, Stamford, bang CONNECTICUT

Tôi sẽ hỏi tại sao ông đã không tin vào sự hiện hữu của các lỗ đen (black holes). Những phương trình trường (field equations) của thuyết tương đối hàm uẫn rằng một ngôi sao lớn hay một đám mây khí lớn sẽ sụp đổ vào trong chính nó và tạo ra lỗ đen. Ông Einstein đã biết điều nầy nhưng không hiểu tại sao lại tự cho rằng một điều gì đó như một sư nỗ tung sẽ luôn luôn xãy ra để tạo ra khối lượng và ngăn ngừa lỗ đen thành hình. Vậy nếu không có sư nỗ tung nầy thì điều gì xãy ra ?

5- Khám phá hay tiến bộ khoa học nào ông muốn thấy trong cuộc đời của ông ?Luca Zanzi, Allston, bang MASSACHUSSETT

Tôi muốn thấy sự hỗn hợp hạt nhân (nuclear fusion) trở thành một nguồn năng lượng thực tiễn. Nguồn nầy sẽ cung cấp năng lượng vô tận, không bị ô nhiểm hay hâm nóng địa cầu.

6- Ông nghĩ chuyện gì sẽ xãy ra cho ý thức (consciousness) của chúng ta sau khi chết ?Elliot Giberson, Seattle, bang WASHINGTON

Tôi nghĩ rằng bộ óc chúng ta giống như một máy vi tính, và ý thức thì giống như một chương trình điện toán. Chương trình nầy se ngưng chạy khi máy vi tính bị tắt đi. Một cách lý thuyết, ý thức có thể tái tạo trên một hệ thống thần kinh (neural network), nhưng chắc là khó lắm vì nó sẽ đòi thu nhập tất cả ký ức/bộ nhớ của mỗi người.

7- Ông nỗi tiếng như là một Vật lý gia kiệt xuất, ông có những quan tâm bình thường nào làm người ta ngạc nhiên không ?Carol Gilmore, Jefferson City, bang MISSOURI

Tôi thưởng thức được tất cả mọi loại nhạc – dân ca, cổ điễn và opera. Tôi cũng chia sẽ thú vui với Tim, con trai của tôi, về cuộc đua xe hơi Formula One.

hawking058- Ông nghĩ rằng những giới hạn thể chất của ông thì đã giúp thêm hay cản trở công việc nghiên cứu của ông ?Marianne Vikkula, Espoo, FINLAND

Mặc dù tôi đã bất hạnh bị bệnh về cơ vận động thần kinh (neuron motor), nhưng tôi lại rất có phúc trên hầu hết những điều khác. Tôi may mắn được làm việc trong lãnh vực Vật lý Lý thuyết, một trong vài lãnh vực hiếm hoi mà tình trạng tàn tật không phải là một bất lợi trầm trọng, và may mắn được trúng số to nhờ mấy cuốn sách bán khá chạy.

9- Ông có cảm thấy một trách nhiệm to lớn đè lên mình khi có người mong chờ ông trả lời được bí mật của đời sống không ? Susan Leslie, Boston, bang MASSACHUSSETT

Chắc chắn là tôi không có giãi đáp cho tất cả mọi vấn nạn về cuộc sống. Trong khi Toán học và Vật lý học có thể cho chúng ta biết vũ trụ đã khởi đầu như thế nào, hai môn nầy lại rất ít công dụng giúp chúng ta tiên đoán được ứng xử của con người vì (tìm hiểu con người thì) có quá nhiều phương trình phải giải. Tôi không giỏi hơn ai cả khi tìm hiểu điều gì làm cho người ta nỗi quạu, nhất là đàn bà.

10- Ông có nghĩ rằng đến một lúc nào đó, nhân loại sẽ hiểu được tất cả những gì cần hiểu về Vật lý không? Karsten Kurze, Bad Honnef, GERMANY

Tôi hy vọng là không bao giờ có thời điểm đó cả. [Tại vì nếu có] Tôi sẽ thất nghiệp mất.

Trí Tánh dịch

California 11/201

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/04/2017(Xem: 8675)
Đức Phật đôi khi có đề cập tới tính chất và các thành phần của vũ trụ. Theo Ngài, có nhiều hình thức đời sống hiện hữu ở các nơi khác trong vũ trụ. Với đà tiến bộ nhanh chóng của khoa học ngày nay, có lẽ không bao lâu nữa chúng ta sẽ khám phá ra các loài sinh vật khác đang sống ở các hành tinh xa nhất trong dãi thiên hà của chúng ta. Có thể các chúng sanh nầy sống trong những điều kiện và qui luật vật chất khác, hay giống như chúng ta. Họ có thể hoàn toàn khác chúng ta về hình thể, thành phần và cấu tạo hoá học
24/04/2017(Xem: 8095)
Lời giới thiệu: Chúng tôi viết quyển sách này với mong muốn được trình bày theo cái hiểu và suy nghĩ của riêng mình. Kính mong rằng các bậc cao Tăng thạc đức niềm tình tha thứ nếu có chỗ nào sai xót. Chúng con hàng hậu học, vừa học, vừa tu vừa hướng dẫn lấy Kinh luật luận làm nền tảng. Trước tiên, chúng ta cần phải hiểu biết rõ ràng về Phật giáo và ứng dụng lời Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Chuyển nghiệp là quá trình nỗ lực làm cho phàm tính trong con người trở thành Thánh tính của bậc hiền.
18/04/2017(Xem: 7373)
Hai năm về trước, ngẫu nhiên đọc được bài diễn văn ‘Giá Trị của Khoa Học’ (The Value of Science) bởi Dr. Richard Feynman, Mùa Thu, 1955, (in Volume XIX, ENGINEERING AND SCIENCE, December 1955) rất nổi danh ở trên internet nhưng lúc đó tôi chưa đủ trình độ để hiểu nổi cái trí tuệ thậm thâm viên diệu của ông ta dù lúc đó tôi cảm thấy rất hấp dẫn.
18/04/2017(Xem: 6485)
Bài viết này được trình bày qua công trình nghiên cứu, suy luận, tham khảo, sáng tác và phóng dịch từ những nguồn gốc tài liệu giá trị bởi những khối óc vĩ đại của các khoa học gia Tây Phương cũng như của những cao tăng và những thiện tri thức, đã được tôi tư duy hóa, đồng cảm hóa, và Phật Giáo hóa để chứng minh vài công án nan giải của khoa học. Nó được xem như là một phương tiện trí tuệ của Phật Thừa để giải thích những gì khoa học hiện đại chưa thể vượt qua được.
17/04/2017(Xem: 5531)
Đa số chúng ta, ít ra đã có một lần, từng đọc qua lời tuyên bố nổi danh của nhà bác học Albert Einstein, tôi xin dịch lại cho sát ‘ý của Einstein từ Tây sang.’ “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của vũ trụ. Nó cao cả hơn một thượng đế nhân tạo và loại bỏ những giáo điều và thần học. Bao gồm cả thực tại và tâm linh, nó nên được đặt trên nền tảng của một tôn giáo trí tuệ, vượt trên tất cả những kinh nghiệm của hiện tại, tự tánh và Tâm Thức, đầy ý nghĩa ‘Đồng Nhất Thể.’ Phật Giáo đáp ứng được công án này. “The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description.” Albert Einsteinle
23/03/2017(Xem: 9934)
Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : Núi cao, thác ghềnh, quán cà phê, phòng làm việc, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa,
20/03/2017(Xem: 11015)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
20/03/2017(Xem: 7519)
Nhân dịp đức Phật về Thành Ca Tỳ La Vệ giáo hóa hay tin công chúa Da Du Đà La mới bảo con mình đến gặp Phật xin chia gia tài, Phật mới nói rằng ta bây giờ không còn nắm giữ tài sản thế gian, chỉ có tài sản của bậc Thánh, nếu con muốn ta sẽ chia cho con? La Hầu La nghe Phật nói liền chấp nhận và sau đó phát tâm xuất gia tu theo Phật. Các bạn biết gia tài tâm linh đó là gì không? Này các bạn, đức Phật của chúng ta trước khi đi tu vẫn có vợ có con, sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề thấu rõ mọi nguyên lý sai biệt như phải quấy, tốt xấu, nên hư, thành bại trong cuộc đời đều do chính mình tạo lấy, sau đó Phật mới trở về tiếp chúng độ sinh. Bảy thứ gia tài Thánh nếu chúng ta biết ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày, thì chúng ta sẽ giàu có và tràn đầy hạnh phúc, không một ai có thể cướp đi được. Đức Phật của chúng ta đã thừa hưởng gia tài đó, nên đã không còn luyến tiếc cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, và thần dân thiên hạ.
20/03/2017(Xem: 8590)
Sau khi nhịp đập của con tim bị ngừng lại và cùng lúc 5 giác quan của toàn thân con người không còn biết cảm giác, gọi là Chết. Nhưng thức A-lại-da bên trong vẫn còn hằng chuyển liên tục và hoạt động một mình. Sự hoạt động đơn phương của nó y như lúc con người còn sống đang ngủ say.Thức A-lại-da hoạt động một mình, không có 5 giác quan của cơ thể bên ngoài cộng tác
16/03/2017(Xem: 7687)
Trong bài “Sức Mạnh Của Tâm” kỳ trước có nói đến Tâm là chủ tể. Đích thực, con người trên đời này làm nên vô số việc tốt, xấu, học hành, nên danh, nên nghiệp, mưu sinh sống đời hạnh phúc, khổ đau, cho đến tu tập phật pháp được giác ngộ thành Phật, thành Thánh, Nhân bản, v.v…đều do tâm chỉ đạo (nhất thiết duy tâm tạo). Qua đây cho ta thấy rằng; tâm là con người thật của con người, (động vật có linh giác, giác hồn thật siêu việt hơn tất cả các loài hữu tình khác trên trái đất này). Phi tâm ra, bản thân con người, chỉ là một khối thịt bất động.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567