Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Số Mệnh Của Tiến Hóa

08/09/201015:07(Xem: 4043)
Số Mệnh Của Tiến Hóa

SỐ MỆNH CỦA TIẾN HÓA
Tuệ Uyển chuyển ngữ

Thế giới có thể vượt qua cực điểm của nó rất nhanh trong tương lai gần đây và đi ngang qua điều không thể tránh những sự tác động to lớn trong tương lai lên loài người và những sự sống khác trên hành tinh. Ai sẽ chịu trách nhiệm thực sự hay trách nhiệm đạo đức? Những nhà khoa học? Phương tiện truyền thông? Những sự quan tâm đặc biệt? Những nhà chính trị? Công luận ngày nay? Con cái hay cháu chắt chúng ta? Ai sẽ phải trả giá này? [1]

Sự lựa chọn của con người bị ảnh hưởng một cách nền tảng trên xã hội học và tâm lý học tiến hóa. Một số quan điểm hay thái độ bẩm sinh của chúng ta như vị kỷ, xung đột, cố chấp và vị trí cấu thành thứ bậc những nhân tố nội tại đưa chúng ta đến khủng hoảng hiển nhiên.

Thiên nhiên liên hệ hổ tương của môi trường ngoại tại và sự nội hướng tự nhiên của con người -- được diễn tả trong mật điển tantra, những hoạt động trên y dược và thiên văn học - đã chứng minh một cách đúng đắn bằng những kinh nghiệm hiện tại của chúng ta. [2]

Thực tế, sự mâu thuẩn trong những bình luận làm yên lòng và sự làm xao lãng trên những phương tiện truyền thông, khí hậu thay đổi do con người, có thể trở thành sự chấm dứt cho công cuộc tiến hóa của chúng ta.

Con người là một trong nhiều loại động vật xã hội trên Trái Đất, liên hệ một cách gần gũi đến những động vật linh trường khác. Cung cách xã hội đặc biệt của chúng ta tiến triển khoảng hai trăm nghìn năm về trước, khi tổ tiên chúng ta chỉ bao gồm những nhóm người rải rác tập hợp săn bắn. Tâm lý học tiến hóa [3] đã thiết lập một sự ảnh hưởng năng động về di truyền bẩm sinh và quan điểm trên thái độ con người. Nó cũng chỉ cho thấy rằng chúng ta không phải là những người máy bị điều khiển bởi 'thuyết định mệnh di truyền' [4]. Sự tiếp nhận tiến hóa quan trọng nhất của con người là ‘khả năng thích ứng uyển chuyển’[5]. Điều này có nghĩa là chúng ta tiến hóa khả năng để đáp ứng đa dạng tùy theo hoàn cảnh, để học hỏi từ kinh nghiệm, và để nhận ra cùng lợi dụng cơ hội khi chúng sinh khởi. Mặc dù bản tính con người là xung đột, điều này có thể thay đổi. Thí dụ, những bộ tộc bản tính hay xung đột của Mongoliathay đổi thành một xã hội Phật Giáo bất bạo động trong một vài thế hệ. Khả năng để học hỏi và chuyển hóa nhanh chóng hiện tại, hơn bao giờ hết, là căn bản cho sự tồn tại của những chủng loại của chúng ta.


Bodhisattva, China, Liao Dynasty

Nếu con người bắt đầu hành động với một lòng từ bi yêu thương chân thành cho mỗi người, chúng ta vẫn có thể bảo vệ mỗi chủng loại và môi trường thiên nhiên. Điều này dễ dàng hơn phải thích ứng với những điều kiện môi trường khắc nghiệt và không thể hiểu nổi đặt để hay phải đối mặt cho tương lai [6].

Lòng vị tha và tôn giáo cũng là những thái độ bản năng của con người[7]. Họ hàng di truyền gần gũi nhất của chúng ta, khỉ vượn chimpanzee, săn bắt một cách hợp tác, chia sẻ thực phẩm và thực hành việc nuôi con nuôi. Trong con người, lòng vị tha hổ tương là một mật mã di truyền hợp tác bẩm sinh. Nó làm cho những hệ thống xã hội phức tạp của chúng ta có thể (hiện hữu). Một hệ thống ‘tế bào thần kinh phản chiếu’ [8] trong não bộ tạo nên ‘sự thông hiểu ảo’ [9] những hành động của những người khác hay khuynh hướng của những người khác cung ứng căn bản cho sự bắt chước, sự thu thập ngôn ngữ, thông cảm và vị tha. Từ quan điểm sinh học, chức năng của thái độ đạo đức [10] là để bảo vệ nhân loại và vật thể di truyền của nó. Chúng ta kinh nghiệm cảm xúc sâu xa chung quanh nền tảng bẩm sinh của nhân loại và vượt quá mục tiêu cá nhân này:

Tính quãng đại không mong cầu trả ơn là thái độ hiếm hoi và thân ái nhất của nhân loại, vi tế và khó để định nghĩa, được phân bố trong một mô thức lựa chọn cao nhất, vây quanh bởi hình thức và nghi lễ, và được tôn vinh bằng huy chương cùng những bài diễn văn cảm động. [11]

Trong thế kỷ 18, Descartes ‘chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế’, bằng sự nhấn mạnh hố thẳm giữa động vật và con người. Luận lý của ông ảnh hưởng mạnh mẽ nền văn hóa công nghiệp. Nó hợp pháp hóa sự ngược đãi phần còn lại của thiên nhiên và tạo nên một quan điểm tự mãn về chính chúng ta. Những đặc trưng phân biệt con người với những động vật khác – ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, và khoa học – là đặc biệt khác thường. Nhưng chúng không tồn tại trong chân không. Chúng tiến triển từ những điểm sinh học và tâm lý học mà chúng ta chia sẻ với những động vật linh trường khác. [7] Số mệnh tiến hóa của nhân loại tùy thuộc vào khi nào chúng ta tỉnh thức khỏi tính ngạo mạn của luận thuyết Descartes mà đã đặt chúng ta lầm chỗ trong một sự cô lập ‘tráng lệ’. Chúng ta có rất ít thời gian để làm thế.

Our Evolutionary Destiny
[1] Hansen J. [2006] Keynote Report to Natl. Acad. Sci. USA
[2] Dalai Lama XIV [1993] The Sheltering Tree of Interdependence
[3] Barrett L., Dunbar R. & Lycett J. [2002] Human Evolutionary Psychology
[4] genetic determinism’
[5] phenotypic plasticity’
[6] Dalai Lama XIV [2007] Collected Statements on Environment
[7] Robin Dunbar [2005] The Human Story
[9] virtual understanding’
[10] ethical behaviour
[11] Edward Wilson [2004] On Human Nature

Tuệ Uyển chuyển ngữ
11-12-2009
http://www.ecobuddhism.org/science/evolution/our_evolutionary_destiny/

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/12/2012(Xem: 5139)
Chủ đề của sách này chính là ‘không’. Nói đơn giản: cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp. Cái không của Bát-nhã là ‘nghĩa sâu sắc’ của sự thể ngộ. Cái không của Long thọ là là giả danh, tánh không của kinh Bát-nhã, và sự thống nhất trung đạo và duyên khởi của kinh A-hàm.
28/12/2012(Xem: 9056)
Trong bầu không khí trang nghiêm, hòa hợp, thắp sáng niềm tin vào nền giáo dục nhân bản Phật giáo của ngày Hội thảo Giáo dục Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VI (2007 -2012) của Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương với chuyên đề “Giáo dục Phật giáo Việt Nam định hướng và phát triển”, tôi xin phát biểu một số ý kiến chung quanh vấn đề Giáo dục Phật giáo như sau:
12/12/2012(Xem: 5602)
Như lai tạng (tathāgata-garbha), Như lai giới – Như lai tánh (tathāgata-dhātu), Phật tánh – Phật giới (buddha-dhātu), v.v., đây là một loại danh từ, trên mặt ý nghĩa tuy có sai biệt ít nhiều, nhưng làm tính khả năng để thành Phật, trên phương diệt bổn tánh chẳng phải là hai của chúng sanh và Phật để nói, thì có ý nghĩa nhất trí với nhau. Tại Ấn-độ, sự hưng khởi của thuyết Như lai tạng khoảng vào thế kỷ thứ 3 A.D., từ giai đoạn sơ kỳ Đại thừa tiến vào hậu kỳ Đại thừa Phật giáo.
25/11/2012(Xem: 6182)
Tôi đã trình bày cấu trúc căn bản của đạo lộ Phật giáo căn cứ trên lời giảng về ba chương trọng yếu: Quán mười hai chi duyên khởi, Quán ngã và vô ngã, Quán bốn thánh đế trong Trung Luận của ngài Long Thọ. Bây giờ chúng ta sẽ tiến vào phần thứ hai, làm cách nào đem tất cả các lí hội thông hiểu với cấu trúc này vào công cuộc tu tập Pháp thật sự. Tôi sẽ giảng giải điều này trên căn bản của một bản văn ngắn của ngài Tsong Khapa, “Ba phương diện chính yếu của đạo lộ” (“Three Principal Aspects of the Path”). Ba phương diện mà Ngài Tsongkhapa đề cập trong bản văn của ngài là xuất li siêu việt, tâm bồ đề, và tri kiến đúng về tính không.
22/11/2012(Xem: 13797)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
19/11/2012(Xem: 11684)
Người Phật tử, dù là xuất gia hay tại gia đều không thể sống buông thả, phóng dật. Bởi lẽ, chúng ta nhận thức đời người là vốn quý, cuộc sống lại có hạn.
19/11/2012(Xem: 8247)
Nhân minh học là gì? Môn học này của Phật giáo ở phương Tây thường gọi là logic học hay là Luận lý học. Viện sĩ Nga Th.Scherbatsky, trong bản dịch Anh ngữ cuốn "Nyaya bindu" của Luận sư Ấn Ðộ Dharmakirti (Pháp Xứng) cũng dịch đầu đề cuốn sách là "A short treatise of logic" tức "Một bộ luận ngắn về logic".
16/10/2012(Xem: 7488)
Nghiệp (Karma) là một đề tài nghiên cứu lớn của các nhà triết học và tôn giáo Ấn Ðộ, Phật giáo cũng không ngoại lệ. Nó luôn luôn là đề tài thảo luận sôi nổi của con người,con người từ đâu sinh ra và sẽ đi về đâu sau cuộc sống này, là câu hỏi muôn thuở và mãi mãi về sau...
03/10/2012(Xem: 7212)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ. Đây là tinh túy của cách sống một cuộc đời đạo đức. Mỗi một hành động đều bắt nguồn từ một động cơ. Nếu ta phương hại người khác, điều này bắt nguồn từ một động cơ; và nếu ta giúp đỡ người khác, điều ấy cũng bắt nguồn từ một động cơ. Thế nên, để hỗ trợ hay phục vụ người khác, chúng ta cần một động cơ nào đấy. Vì thế, ta cần các khái niệm nào đó.Tại sao ta lại giúp đỡ và không phương hại người khác?
20/09/2012(Xem: 5318)
Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu. Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ. Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những khái niệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567