Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tứ y pháp (四 依 法 , Catuḥpratisaraṇa, The four reliances)

19/10/202408:41(Xem: 740)
Tứ y pháp (四 依 法 , Catuḥpratisaraṇa, The four reliances)

 
hoa sen dep-4


Tứ y pháp

Catuḥpratisaraṇa

The four reliances

(2024)

***

Nội dung

1. Y pháp bất y nhân.

          1) Hành giả nương tựa theo Phật pháp (= Chánh pháp).

                     1. Chân lý Duyên khởi      2. Đạo đức Duyên khởi

          2) Hành giả chẳng nương tựa theo người.

2. Y nghĩa bất y ngữ.

          1) Hành giả nương vào nghĩa lý.

          2) Hành giả không nương vào ngôn ngữ.

3. Y trí bất y thức.

          1) Hành giả nương theo trí.

          2) Hành giả không nương theo thức.

4. Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh.

          1) Hành giả nương theo kinh liễu nghĩa.

          2) Hành giả không nương theo kinh bất liễu nghĩa.

NBS:  Minh Tâm (10/2024)

 

Tứ y pháp (四依法;  S: Catuḥpratisaraṇa;  E: The four reliances) là 4 pháp phương tiện quan trọng theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp hành giả rõ biết pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giác ngộ, giải thoát.

Tứ y được xem là lấy ý tưởng về sự nương tựa từ kinh Pali SN 45.2: Upaḍḍhasutta và kinh Sanskrit là Āryakalyāṇamitrasevanasūtra.

Tứ y gọi đầy đủ là Tứ y 四依 Tứ bất y 四不依, tức bốn điều nên y cứ (依據 = nương tựa theo) và bốn điều không nên y cứ. Đây là giáo lý được chỉ ra  trong các kinh như: Đại Bát Niết Bàn kinh, q.6; Đại Phương Đẳng Đại Tập kinh, q.29; Đại Phương Tiện Phật Báo Ân kinh, q.7; Đại Trí Độ luận, q.9 … (theo Từ điển Phật học Huệ Quang, Thích Minh Cảnh, tr.4904).

Tứ y pháp bao gồm:  Y pháp, bất y nhân; Y nghĩa, bất y ngữ; Y trí, bất y thức; Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh. Cũng gọi là Tứ y tứ bất y, là bốn điều mà một người tu cần nương tựa và bốn điều không nên nương tựa. 

1. Y pháp bất y nhân. 

Y pháp bất y nhân (依法不依;  S: Dharma-pratisaraṇena bhavitavyaṃ na pudgala-pratisaraṇena;  E: To rely on logic and not on the person giving the teaching):  Cũng gọi là Tuỳ pháp bất tuỳ nhân 隨法不隨人, có nghĩa là hành giả nương tựa theo Phật pháp (= Chánh pháp), chẳng nên nương tựa theo người.

1) Hành giả nương tựa theo Phật pháp:  Đó là nương tựa theo Chân lý Duyên khởi do chính đức Phật đã chứng ngộ, và nương tựa theo Đạo đức Duyên khởi là nguyên tắc mà đức Phật đã vận dụng từ Chân lý Duyên khởi để ứng dụng hài hòa vào thế giới sống này.

         1. Chân lý Duyên khởi:  Là vũ trụ quan của đạo Phật. Chân lý Duyên khởi gồm 2 nội hàm chân đế là Vô ngã và Vô thường.

         - Vô ngã (không thực thể), với ý nghĩa rằng mọi sự vật là một hợp Duyên (yếu tố mang tính điều kiện). Theo đó, mọi sự vật không có tự tính (tự ngã tính, tự hữu, tự có). Vô ngã mang tính không gian.

         - Vô thường (không mãi tồn tại), với ý nghĩa rằng ở mọi sự vật, các Duyên (nội Duyên và ngoại Duyên) luôn liên tục tương tác thay đổi trong từng sát-na. Theo đó, mọi sự vật sẽ không mãi tồn tại (hằng hữu), nghĩa là không mất đi mà luôn biến đổi từ dạng này sang dạng khác. Vô thường mang tính thời gian.

         2. Đạo đức Duyên khởi :  Là nhân sinh qua của đạo Phật. Đây là hệ luận mang tính tục đế, được áp dụng từ nhận thức Chân lý Duyên khởi, làm chuẩn mực cho việc xử thế.  Nguyên tắc đạo đức này vượt mọi không gian và thời gian, được mô tả như sau:

Mọi hành động đem lại lợi mình-lợi người, được xem là tốt, là thiện,lành.

Mọi hành động đem lại lợi mình-hại người hay hại mình-lợi người hay hại mình-hại người, được xem là xấu, là ác, là dữ.”

2) Hành giả chẳng nương tựa theo người:  Đó là chẳng nên nương tựa vào người nói pháp, giảng pháp mà không thấu đáo Phật pháp, chỉ đề cặp đến các ý tưởng chủ quan phiến diện hay cực đoan, chứa đựng những bất thiện Tham-Sân-Si, đó là ngã chấp trái với  Phật pháp.

Những ý tưởng gần với điều nương tựa này là:

Trong kinh Kalama, thuộc Tăng Chi Bộ Kinh, tập I, điều 3 và 10, có ghi:

Ba là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.

Mười là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.

Ngày nay, phần lớn người tìm cầu tu học có căn cơ hạn chế nên cần dựa vào cả kinh sách và người hướng dẫn tu học. Việc cần lưu ý là hành giả không quá thần tượng vào người hướng dẫn, và luôn sáng suốt gắn liền hiện thực với Chánh pháp.

Thiền sư Đạo Xuyên, tức Xuyên thiền sư, đời thứ 3 sau Lục Tổ sống vào thời kỳ Nam Tống Trung Quốc, đã nhắc nhở các hành giả hãy tỉnh táo đối với người dạy đạo:

Người chánh nói pháp tà, tà pháp trở về chánh.

Người tà nói pháp chánh, pháp chánh trở thành tà.

Chánh nhân thuyết Tà pháp, Tà pháp tất qui chánh

Tà nhân thuyết Chánh pháp, Chánh pháp tất qui tà          

正人說邪法,邪法必歸正;邪人說正法, 正法必歸邪

2. Y nghĩa bất y ngữ.

Y nghĩa bất y ng (依義不依語;  S: Artha-pratisaraṇena bhavitavyaṃ na vyañjana-pratisaraṇena;  E: To rely on the meaning and not on the words): Cũng gọi là Tuỳ nghĩa bất tuỳ tự có nghĩa là hành giả nương vào nghĩa lý, chẳng nên nương vào ngôn ngữ.

1) Hành giả nương vào nghĩa lý:  Đó là hành động nương vào sự hiểu rõ sự lý của Phật pháp, là Chân lý và Đạo đức. Hành giả cần thấy rằng, ngôn ngữ, văn tự chỉ là công cụ phương tiện diễn đạt Chân lý và Đạo đức  –  “Văn dĩ tải đạo * 文以载道”, giúp hành giả nhận thực ra Chân lý và Đạo đức để hành trì và thân chứng.

2) Hành giả không nương vào ngôn ngữ:  Đó là hành động không bám víu và quá cố chấp vào văn tự.  Bởi ngôn ngữ và văn tự là các sản phẩm của quy ước, của khái niệm mang tính chủ quan, chỉ có tính tương đối. Vì thế, hành giả không nên quá nương vào ngôn ngữ, văn tự mà sinh ngã chấp, dẫn đến phiền não.

Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói: “Phàm là lời nói đều không có nghĩa thật”.  

Trong kinh Viên Giác, chương 6, Bồ-tát Thanh Tịnh Huệ thưa hỏi về giáo pháp và chân lý, đức Phật đã dạy rằng:

"Kinh giáo như ngón tay chỉ mặt trăng chân lý, nếu thấy được mặt trăng thì biết rõ ngón tay rốt ráo không phải là mặt trăng. Tất cả ngôn giáo của Như Lai khai thị cho Bồ-tát cũng như thế". 

Nếu y theo kinh điển để giải nghĩa, để tìm chân lý trong những giòng chữ, thì đó chính là chỉ biết nhìn ngón tay mà chưa biết nhìn mặt trăng. Nhưng rời bỏ hẳn kinh điển đi thì lại có thể rơi vào những điên đảo vọng tưởng.

Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Trong suốt 49 năm thuyết pháp, Như Lai chưa từng nói một lời nào””.

Trong kinh Lăng Già, đức Phật cũng dạy: “Từ đêm được Chánh giác tối thượng cho đến đêm nhập Niết-bàn, trong khoảng thời gian ấy, Như Lai chưa hề thuyết một chữ nào, cũng chưa từng đã thuyết hay sẽ thuyết”.

Chư Tổ còn lưu ý cho hành giả tu học:  "Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết  * 依經解義,三世佛冤;  离經一字,即同魔說" có nghĩa là chấp chặt nơi văn tự mà giải nghĩa, thì oan cho ba đời chư Phật; mà rời bỏ kinh điển thì lại lạc vào những tà thuyết của ma vương

Trong Nam Hoa kinh, chương Ngoại vật, Trang Tứ viết:

Có nơm là vì cá,

Được cá hãy quên nơm.

Có dò là vì thỏ,

Được thỏ hãy quên dò.

Có lời là vì ý,

Được ý hãy quên lời.

Ta tìm đâu được người biết quên lời

Hầu cùng nhau đàm luận.

Thuyên giả sở dĩ tại ngư; đắc ngư nhi vong thuyên. Đề giả sở dĩ tại thố, đắc thố nhi vong đề. Ngôn giả sở dĩ tại ý, đắc ý nhi vong ngôn. Ngô an đắc phù vong ngôn chi nhân nhi dữ chi ngôn tai. 筌者所以在魚 得魚而忘筌  蹄者所以在兔 得兔而忘蹄  言者所以在意 得意而忘言  吾安得夫忘言之人而與之言哉.

3. Y trí bất y thức.

Y trí bất y thức (依智不依識;  S: Jñāna-pratisaraṇena bhavitavyaṃ na vijñāna-pratisaraṇena;  E: when in doubt to rely on the essential understanding one has achieved oneself and not merely on knowledge one has heard from others):  Cũng gọi là Tuỳ trí bất tuỳ thức, có nghĩa là nương theo trí, không nương theo thức cố chấp.

1) Hành giả nương theo t:

Trí = Tuệ tri 慧知 = Tuệ giác 慧覺 (E: Wisdom of enlightenment → Vô phân biệt trí). 

Hành giả nương theo trí là nương vào sự thấy biết sự vật đúng theo lẽ thật Duyên khởi. Đó là sự thấy biết sự vật “như nó đang là”, nghĩa là thấy biết sự vật đang không ngừng biến chuyển theo sự tương tác của các Duyên (nội duyên và ngoại duyên).

2) Hành giả không nương theo thức.

Thức 識 = Vọng thức妄識 (E: Wrong consciousness → Phân biệt trí) là thấy biết sự vật trái với lẽ thật Duyên khởi. Sự vật vốn là giả tạm (E: temporary) hay giả ảo (E: virtual) do tưởng tượng mà cho là thật.

 Hành giả không nương theo thức, nghĩa là hành giả không nương theo các thấy biết sự vật theo các khái niệm (quan niệm) phân biệt đúng-sai, tốt-xấu, cao-thấp, hay-dở, ... một cách cực đoan. Vì như thế, hành giả đã rơi vào những dính mắc ngã chấp.

Chỉ có tuệ giác mới nhận chân được Chân lý thực tại, còn Vọng thức là thấy biết có tính tương đối dễ dẫn đến mê chấp. Với tuệ giác, hành giả mới đầy đủ công năng quét sạch phiền não, thanh tịnh ba nghiệp. Còn thức dẫu thông minh, nhạy bén và lanh lợi đến đâu đi nữa cũng vẫn là vô thường sinh diệt, hư vọng dễ dẫn đến phiền não.  Vì vậy, “Duy tuệ thị nghiệp * 唯慧是業” trong kinh Bát Đại Nhân Giác chính là phương châm tu học của hành giả.

Trong kinh Nhập Lăng Già, phẩm Vô thường, đức Phật đã nói với Bồ-tát Đại Huệ: “Đại Huệ, sinh diệt là thức, chẳng sanh diệt là trí”, hay ở phẩm Tu tập tất cả pháp:  “Phàm phu thì phân biệt, bậc thánh thì không

Trong kinh Kim Cương, Đoạn 21: Phi Thuyết Sở Thuyết (Chẳng phải thuyết, sở thuyết) có chép:  “Này Tu-bồ-đề!, nói pháp, tức không pháp có thể nói, ấy gọi là nói pháp * Tu-bồ-đề! Thuyết pháp giả, vô pháp khả thuyết, thị danh thuyết pháp * 須菩提!說法者,無法可說,是名說法”.

4. Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh.

Y liễu nghĩa kinh, bất y bất liễu nghĩa kinh (依了義經不依不了義經;  S: Nītārtha-sūtra-pratisaraṇena bhavitavyaṃ na neyārtha-sūtra-pratisaraṇena;  E: to rely on scriptures of definitive meaning and not on scriptures of provisional meaning):  Cũng gọi là Tuỳ liễu nghĩa kinh, bất tuỳ bất liễu nghĩa kinh, có nghĩa là nương theo các kinh điển liễu nghĩa, chẳng nên nương theo các kinh điển không liễu nghĩa.

Theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền, kinh điển được Phật tuyên thuyết tùy căn cơ chúng sanh nên có cao thấp, khác biệt. Trên tinh thần phương tiện thì những kinh điển đươc chia ra:

- Kinh liễu nghĩa (了義經;  E: The sutras containing the whole truth, ... the deep Buddhism) là kinh có nội hàm mang tính chân đế (chân lý tuyệt đối), nội hàm này giúp hành giả đoạn trừ phiền não, đi đến giác ngộ giải thoát.

- Kinh bất liễu nghĩa (不了義經;  E: The sutras containing the relative truth) là kinh có nội hàm mang tính tục đế (chân lý tương đối), nội hàm này khuyên hành giả hành thiện tránh ác, nên hãy còn phiền não do thức phân biệt.

Ví dụ:

- Nếu nói Như Lai nhờ sự ăn mà sống còn, đó là lời không liễu nghĩa. Nếu nói Như Lai thường trụ, đây gọi là lời liễu nghĩa.

- Nếu nói Như Lai nhập Niết-bàn như củi hết lửa tắt, đó là lời không liễu nghĩa. Nếu nói Như Lai nhập Pháp tính, đây gọi là lời liễu nghĩa.

1) Hành giả nương theo kinh liễu nghĩa.

Hành giả nương theo kinh liễu nghĩa có nghĩa là hành giả hành trì theo các kinh điển hướng về Vô thượng Bồ-đề, thành tựu giác ngộ giải thoát. Đó là hành giả có căn cơ cao.

2) Hành giả không nương theo kinh bất liễu nghĩa.

Hành giả không nương theo kinh bất liễu nghĩa có nghĩa là hành giả không nên hành trì theo các kinh điển hướng về thể nhập Nhân thừa và Thiên thừa.

Vì căn cơ chúng sanh cao thấp khác biệt, nên tác dụng và hiệu lực của từng kinh liễu nghĩa hay bất liễu nghĩa (hay từng pháp môn khác nhau) dùng để trị những căn bệnh khác nhau. Ở đây, từ bản chất, không có sự chống trái nhau giữa các kinh và các pháp môn tu tập, mà chỉ có sự ứng dụng thực hành của hành giả thích hợp hay không thích hợp mà thôi.

Trong kinh Duy Ma Cật có khuyên các hành giả khi hành trì theo kinh cần phải hiểu rõ mục đích của các kinh: “Hết thảy các pháp đều như nhau, không quý không tiện. Người sáng suốt trí tuệ, biết dùng pháp, dùng đúng thì khỏi bệnh, dùng sai pháp thì bệnh nặng thêm, cho nên dùng pháp phải cẩn thận”. 

Giáo lý Tứ y vạch ra những yếu tố quan trọng mà hành giả cần nương tựa và những yều tố không nên y cứ, nhằm vượt qua các chướng ngại để thành tựu Bồ-đề. Mặt khác, giáo lý Tứ y là một phương tiện tốt giúp cho hành giả vận dụng giáo pháp một cách thông minh, linh hoạt và đồng thời khai thác hết những tinh túy, đặc sắc của giáo lý để ứng dụng tu tập.

Giáo lý Tứ y cũng chỉ là một phương tiện trong vô vàn phương tiện khác của giáo pháp, vì thế khi ứng dụng giáo lý Tứ y cũng cần sự linh hoạt nhuần nhuyễn, nhất là cần phải hiểu một cách tinh tế chính xác.

Xem thêm

- Giáo pháp tứ y

-  Phẩm Thứ Tám: Tứ Y

- Giáo Lý Tứ Y Trong Đạo Phật

- Từ điển Phật học

VIDEO

- Tứ y - Sư Ông Làng Mai

- Tứ y phápThích Trí Huệ

- Pháp Tứ YThích Hạnh Tuệ

- TỨ Y PHÁP - Thích Đồng Thành

-------------

Chú thích:   Tứ y pháp trong Luật tạng là 4 chỗ nương tựa căn bản cho đời sống phạm hạnh. Vị Tỷ-kheo y theo đây mà xuất gia, thọ giới Cụ túc, để có được phẩm chất “Tỷ-kheo”, bao gồm:

1- Tỷ-kheo sống y trên y phấn tảo (y thô xấu được kết từ vải vụn bị vứt bỏ).

2- Tỷ-kheo sống y trên sự khất thực (xin ăn hàng ngày).

3- Tỷ-kheo sống y nơi gốc cây mà ngủ nghỉ (ở dưới gốc cây).

4- Tỷ-kheo sống y nơi các loại thuốc hủ lạn dược (những loại thuốc bào chế đơn giản, rẻ tiền).

Tứ y pháp còn gọi là Tứ Thánh chủng, tức là 4 hạt giống của bậc Thánh, “có công năng sinh ra chủng tử Thánh trong mỗi chúng sinh” (Phật Quang đại tự điển).

Tăng đoàn Nguyên Thủy sống dựa trên việc khất thực, bốn vật dụng thiết yếu là y phục, thức ăn, chỗ ở, thuốc men đều do nơi khất thực mà có, không có việc tư hữu. Khi Tăng đoàn hưng thịnh, các cư sĩ tại gia phát tâm hộ trì chúng Tăng nhiều hơn, điều gì họ xin phép mà Thế Tôn thấy hợp lý thì Ngài đồng ý bằng cách im lặng.

Xem thêm

- Chơn Lý số 21: Chánh Pháp

- Tứ Y - Tứ thánh chủng trong giới đàn truyền giới

VIDEO

- HT. Giác Giới - Tứ y pháp

- HT. Giác Pháp - Tu tập Tứ y pháp trong giai đoạn hiện nay

 



Hoan nghênh các bạn góp ý trao đổi!

Huy Thái: [email protected]

***

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2021(Xem: 25631)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 21514)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 13566)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 15181)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15299)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 17912)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 17196)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
24/06/2021(Xem: 5084)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 21481)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 14748)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]