Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Paris, 22 tháng năm 1966

14/07/201100:46(Xem: 3275)
12. Paris, 22 tháng năm 1966

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỢ HÃI [ON FEAR]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009 –
HarperSanFrancisco, A Division of HarperCollinsPublishers

PHẦN I

Paris, 22 tháng năm 1966

Hầu hết mọi người đều sợ hãi, cả phần thân thể lẫn bên trong. Sợ hãi tồn tại chỉ trong liên quan đến cái gì đó. Tôi sợ hãi bệnh tật, đau đớn thân thể. Tôi đã trải qua nó và tôi sợ hãi nó. Tôi sợ hãi quan điểm quần chúng. Tôi sợ hãi mất một việc làm. Tôi sợ hãi không đến được, không đạt được, không thể thành tựu được. Tôi sợ hãi tối tăm, sợ hãi dốt nát riêng của tôi, sợ hãi nhỏ nhen riêng của tôi. Chúng ta có quá nhiều sợ hãi khác nhau, và chúng ta cố gắng giải quyết những sợ hãi này trong những mảnh. Dường như chúng ta không thể ra khỏi quy định đó. Nếu chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã hiểu rõ một sợ hãi đặc biệt, và đã giải quyết nó, một sợ hãi khác lại xuất hiện. Khi chúng ta ý thức rằng chúng ta sợ hãi, chúng ta cố gắng tẩu thoát khỏi nó, cố gắng tìm ra một câu trả lời, cố gắng tìm ra phải làm gì, hay cố gắng kiềm chế nó.

Chúng ta những con người đã ma mãnh phát triển một mạng lưới của những tẩu thoát: Thượng đế, vui chơi, nhậu nhẹt, tình dục, bất kỳ thứ gì. Tất cả những tẩu thoát đều giống nhau, dù nó nhân danh Thượng đế hay nhậu nhẹt! Nếu chúng ta muốn sống như những con người chúng ta phải giải quyết vấn đề này. Nếu chúng ta sống trong sợ hãi, nhận biết được hay không nhận biết được, nó giống như đang sống trong tối tăm, cùng xung đột và chống đối kinh khủng phía bên trong. Sợ hãi càng lớn lao bao nhiêu, căng thẳng càng lớn lao bao nhiêu, loạn thần kinh càng nhiều bao nhiêu, sự thôi thúc để tẩu thoát càng nhiều bấy nhiêu. Nếu chúng ta không tẩu thoát, vậy thì chúng ta tự-hỏi mình, ‘Làm thế nào chúng ta sẽ giải quyết nó?’ Chúng ta tìm kiếm những phương cách và những phương tiện giải quyết nó, nhưng luôn luôn bên trong lãnh vực của cái đã được biết. Chúng ta làm cái gì đó cho nó, và hành động được nuôi dưỡng bởi tư tưởng này là hành động bên trong lãnh vực của trải nghiệm, hiểu biết, cái đã được biết, và thế là, không có câu trả lời. Đó là điều gì chúng ta làm, và chúng ta chết đi cùng sợ hãi. Chúng ta sống suốt cuộc đời của chúng ta cùng sợ hãi và chết đi cùng sợ hãi. Bây giờ, liệu một con người có thể hoàn toàn loại bỏ sợ hãi? Liệu chúng ta có thể làm bất kỳ điều gì, hay không điều gì cả? Không điều gì cả không có nghĩa rằng chúng ta chấp nhận sợ hãi, lý lẽ nó, và sống cùng nó; đó không là không-hành động mà chúng ta đang nói.

Chúng ta đã làm nhiều thứ mà chúng ta có thể làm liên quan đến sợ hãi. Chúng ta đã phân tích nó, đã tìm hiểu nó, đã cố gắng đối diện nó, đã tiếp xúc trực tiếp cùng nó, đã kháng cự nó, đã làm mọi điều có thể được, và sự việc còn y nguyên. Liệu có thể tỉnh thức được nó tổng thể, không chỉ thuộc trí năng, thuộc cảm xúc, nhưng hoàn toàn tỉnh thức được nó, và tuy nhiên không làm bất kỳ điều gì về nó? Chúng ta phải tiếp xúc trực tiếp cùng sợ hãi, nhưng chúng ta lại không. Từ ngữ sợ hãi đã gây ra sợ hãi đó. Chính từ ngữ ngăn cản chúng ta không tiếp xúc trực tiếp cùng sự kiện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2011(Xem: 21512)
Phật Và Thánh Chúng The Buddha and His Sacred Disciples Chương 1: Đức Phật—The Buddha Chương 2: Đạo Phật—Buddhism Chương 3: Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan Phật Giáo Buddhist Points of view on Human Life and Buddhist Cosmology Chương 4: Chuyển Pháp Luân và Năm Đệ Tử Đầu Tiên Turning The Wheel of Dharma and The First Five Disciples Chương 5: Kết Tập Kinh Điển—Buddhist Councils Chương 6: Tam Bảo và Tam Tạng Kinh Điển Triple Jewels and Three Buddhist Canon Baskets Chương 7: Kinh và Những Kinh Quan Trọng—Luật—Luận Sutras and Important Sutras-Rules-Commentaries Chương 8: Đạo và Trung Đạo—Path and Middle Path Chương 9: Vi Diệu Pháp—Abhidharma Chương 10: Tam Thời Pháp—Three Periods of The Buddha’s Teachings Chương 11: Thân Quyến—The Buddha’s Relatives Chương 12: Thập Đại Đệ Tử—Ten Great Disciples Chương 13: Những Đệ Tử Nổi Tiếng Khác—Other Famous Disciples Chương 14: Giáo Đoàn Tăng và Giáo Đoàn Ni—Monk and Nun Orders Chương 15: Tứ Động Tâm—Four Buddhis
18/05/2011(Xem: 6647)
From the 6th to 16th of June 2007, His Holiness the Dalai Lama will visit Australia. This is his fifth trip here to teach the Buddha-Dharma. Everyone here is anxiously waiting for His arrival. His first four visits occurred in 1982, 1992, 1996 and 2002. In 2002, there were approximately 110,000 people (from cities like Geelong, Melbourne, Sydney and Canberra) who came to listen to his preaching, in order to change and develop their spiritual lives. It can be said that His Holiness the Dalai Lama is the greatest Buddhist preacher in the modern age and has written many books on Buddhism, These have attracted many western readers to read about Buddhism.
12/05/2011(Xem: 6941)
Nhiều lý thuyết siêu hình của Phật giáo tỏ ra xa vời, khó hiểu và khó tiếp cận đối với độc giả trung bình chưa được chuẩn bị để tiếp nhận chúng. Đó là vì chúng đòi hỏi một sự thông hiểu sâu sắc và lâu dài các định luật của thế giới tâm linh và tiết nhịp của đời sống tinh thần, chưa nói đến khả năng hãn hữu cần có để duy trì sự suy nghiệm khô khan. Thêm vào đó, các nhà tư tưởng Phật giáo lại tạo nên một số giả định ngầm mà các triết gia Tây phương hiện đại đã minh nhiên bác bỏ. Thứ nhất, chung cho hầu hết mọi người Ấn độ bình thường*, khác với người châu Âu có tính ‘khoa học’, tư tưởng lấy những kinh nghiệm du-già làm nguyên vật liệu cho phản tỉnh triết học.
11/05/2011(Xem: 5313)
Trong cuộc sống thường nhật của con người, ngôn ngữ đóng vai trò vô cùng trọng yếu. Không có ngôn ngữ con người không thể diễn đạt được bất cứ điều gì, từ những cảm quan thường nghiệm đến những tư duy siêu việt.
25/04/2011(Xem: 12492)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
20/03/2011(Xem: 4942)
Tôi có một người huynh đệ băn khoăn bởi một vấn đề. Đó là một đằng theo lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục, v.v.?” tức là không còn so sánh, phê phán, nhị biên, để hoà mình, thâm nhập với chân như. Đằng khác lại phải còn biết phải quấy để hành thiện, cải thiện, tức là còn nhị biên. Như vậy người huynh đệ tự hỏi: chánh kiến là hành thiện, hay không thiện, không ác?Và đi xa hơn một chút, thế nào là định nghĩa đúng của chữ hành thiện (vì có rất nhiều cạm bẫy hiểu lầm: biết bao nhiêu kẻ quá khích lại tưởng mình hành thiện)? Tôi có cảm tưởng rằng câu hỏi đặt ra cũng là câu hỏi chung của nhiều Phật tử, trong đó có tôi. Nỗi băn khoăn, khắc khoải đó hoàn toàn có căn cứ, và không phải là dễ dàng giải đáp.
06/03/2011(Xem: 10876)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩa và nguyên nhân của sự đau khổ...
29/01/2011(Xem: 11160)
Cảm xúc, trong tâm lý nhà Phật gọi là Vedana. Theo chữHán, chúng ta có thể dịch Vedana theo nghĩa như chữ “thọ”, có bản dịch là chữ “giác”, tức cảm giác. Còn trong tiếng Việt, Vedana, có ba nghĩa để dùng là cảm thọ, cảm giác và cảm xúc.
17/01/2011(Xem: 6122)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
16/01/2011(Xem: 7162)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]