Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 21: Liên Trì Cảnh Sách

25/04/201116:08(Xem: 7376)
Chương 21: Liên Trì Cảnh Sách

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
Thích Quảng Ánh Việt dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Saigon 2007

Chương XXI

LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH

1. Việc đại ác ở trần gian

Trên đời có một việc cực ác mà tất cả người đều hay phạm phải. Những việc cực ác này người đời đều cho là thường, không lấy gì là sai trái. Việc cực ác này chính là ăn thịt. Thật vậy, ăn thịt là một việc cực ác tạo ra thế giới này vô số thảm hoạ không may như bệnh ung thư khó chữa, còn tạo ra vô số người cô độc không vợ không con, gia đình ly tán, nhà cửa tan nát. Kinh Lăng Nghiêm đã nói: ”Ăn thịt bằng tội với giết hại”. Ăn thịt là giết hại. Một ngày ăn thịt là một ngày phạm tội giết hại. Đã phạm tội giết hại ắt sẽ nhận lấy quả giết hại rất khổ đau. Đây là đạo lý nhân quả không sai lệch một ly. Nên nói rằng việc cực ác và điều bất hạnh trên thế gian chính là ăn thịt và giết hại mạng sống.

2. Việc thiện lớn nhất trên đời

Trên đời có một việc thiện lớn nhất mà tất cả người đời đều có thể thực hành được. Nhưng việc đại thiện này lại bị người đời huỷ báng, khinh chê, ngăn cản và phê bình, lại còn khinh bỉ và coi thường nữa. Việc đại thiện nhất này chính là phóng sinh. Phóng sinh chính là việc thiện lớn nhất để người đời thoát khỏi nạn binh đao và giết chóc chiền miên. Người thực hành hạnh này thành tựu được nguyện vọng khoẻ mạnh, sống lâu, gia đình đoàn tụ, giàu sang và an lạc. Kinh Dược Sư nói rằng: ”Cứu giúp mạng sống chúng sinh bệnh nặng được tiêu trừ, giải thoát được tai nạn”… ”Tu phước phóng sinh qua được khổ ách, không gặp tai nạn”. Phóng sinh là việc làm cứu lấy mạng sống chúng sinh, bởi mạng sống chúng sinh là quý báu nhất. Vì thế, công đức phóng sinh rất lớn, các việc thiện khác không thể so sánh được. Đã gieo trồng công đức phóng sinh sẽ được loài vật cảm đến ân đức, Long Thiên hộ trì, chư Phật hoan hỷ và sẽ đạt được phước báu lớn cho bản thân. Đây là đạo lý nhân quả báo ứng không sai lệch. Nên nói rằng: việc thiện và phước báo lớn nhất trên thế gian chính là chuộc mạng phóng sinh vậy.

3. Hết sức vô lý

Việc đáng tiếc chính là người đời chỉ chú ý ở chỗ đoạn dứt việc ác nhỏ mà không chú trọng đoạn việc cực ác. Nguyện sẽ sửa đổi bao nhiêu thói hư xấu nhưng khi nghe nói đến ăn chay và không giết hại, họ không bỏ được hai thói quen xấu ác này. Còn một hạng người chỉ chú ý làm việc thiện nhỏ nhưng không nguyện làm những việc thiện lớn. Họ nguyện làm tất cả những việc thiện nhưng khi nghe nói đến chuộc mạng và phóng sinh, lại ngại lo trước sau chưa muốn làm. Chúng sinh thời kỳ mạt pháp ngu si không trí tuệ, quá sức vô lý, thật đáng thương. Không còn gì vô lý hơn nữa ở việc làm của họ!

4. Được không bằng mất

Ví như có thùng nước rỉ chảy (tu hành còn hữu lậu) chúng ta nhất định phải nhanh chóng bít lại chỗ thủng (giữ giới, sửa lỗi) là việc làm cấp bách. Đương nhiên bít lại chỗ thủng là việc làm nghiêm trọng và cấp bách (ăn chay, không giết hại). Nếu bỏ đi chỗ thủng lớn nhất không bít lại, đi tìm những lỗ thủng nhỏ để bít, thì thùng nước sẽ không còn toàn vẹn, nước đã rỉ chảy hết rồi! Hạng người này nhất định tu hành thì nhiều nhưng kết quả không được bao nhiêu, chỗ được không bù đầy chỗ mất. Họ sẽ vĩnh viễn không có ngày thành công.

5. Lựa chọn

Ví như muốn thêm nước đầy vào một bồn chứa nước (tích luỹ công đức), chúng ta nhất định cần đem ống dẫn để thêm nước vào bồn chứa (bố thí, làm việc thiện). Loại ống dẫn nước có rất nhiều, chúng ta phải nhanh chóng lấy ống dẫn tốt đẹp, vừa vặn nhất (chuộc mạng, phóng sinh). Cách làm này được hiệu quả rõ ràng. Nếu bỏ đi ống tốt không dùng, lại theo ý làm càn dùng ống nhỏ hẹp cũ rỉ mà muốn cho nước vào đầy bồn chứa thì việc đã khó lại càng khó thêm.

6. Hai điều kiện quan trọng

Việc tu hành của chúng ta cũng giống như cách chứa và giữ nước trong thùng vậy. Việc nỗ lực trì giới chính là bít lại những chỗ rỉ chảy để phòng ngừa công đức tán mất mà chúng ta rất khổ sở tích chứa được. Giữ giới, giới không sát sinh được chú trọng hàng đầu. Không quản là Ngũ giới, giới Sa-di, giới Tỳ-kheo hay giới Bồ-tát, giới trọng thứ nhất là không sát sinh. Vì thế, muốn trì giới trước tiên nên ăn chay và phóng sinh làm gấp. Chúng ta nỗ lực tu hành nghiệp thiện cũng như ra sức thêm nước vào thùng. Đó là tích luỹ vốn liếng, phước đức cho nhiều. Hạnh thiện trước hết là phóng sinh, bởi phóng sinh chính là hành động cứu thoát sinh mạng chúng sinh, duyên lành rất sâu, phước đức rất lớn. trong mười điều thiện thì điều thứ nhất là không sát sinh. Suy cho rộng ra đó chính là phóng sinh. Có thể biết được công đức phóng sinh rất lớn. Do vậy, làm việc thiện nên dùng chuộc mạng phóng sinh làm trước.

7. Phóng sinh tức trả tự do cho chư phật vị lai

Đại sư Ngẫu Ích trong “Linh Phong Tông Luận”, đối với việc phóng sinh phân tích rõ ràng: ”Sát sinh tức giết chết tự tâm của chư Phật vị lai. Ngược lại, phóng sinh là trả tự do cho chư Phật vị lai. Nếu trả tự do cho chư Phật vị lai tức là Chân Niệm Phật Tam-muội. Tu pháp Niệm Phật Tam-muội này tức là thường chuyển kinh Pháp Hoa ngàn vạn ức bộ”.

8. Phóng sinh và nước Từ bi Tam-muội

Đại sư Ngẫu Ích dạy: ”Muốn được tâm người chứng tâm Phật, chuyển kiếp ô trược thành Tịnh độ, không có phương pháp nào hơn phương pháp phóng sinh . Một pháp phóng sinh được mở rộng lâu dài như một bát nước không cứu được xe củi cháy. Giả sử mỗi người một bát, một bát rồi lại thêm một bát nữa. Nhiều bát nước, xe củi cháy phải được dập tắt. Ngày nay, sự giết hại xoay vần tới tấp, nên cùng đồng phần nghiệp ác chiêu cảm. Chẳng phải nước từ bi Tam-muội làm sao dễ dàng dập tắt được!”

9. Đạo lý phóng sinh rất sâu

Đạo lý phóng sinh rất sâu xa. Ngu si, thấp kém như chúng ta chỉ có thể theo lời dạy mà vâng làm, còn không thể lãnh hội một phần nhỏ của chân lý phóng sinh. Phóng sinh chính là trả tự do cho tự tâm chư Phật vị lai. Phóng sinh là chân niệm Phật Tam-muội, là thường chuyển kinh Pháp Hoa ngàn vạn ức bộ. Phóng sinh là nước từ bi Tam-muội. Hạng này đối với phóng sinh có sự hiểu biết và thể nhận sâu sắc. Chỉ có những vị đại sư Ngẫu Ích là bậc cao đức có hạnh tu trì thâm sâu và trí tuệ siêu việt mới có thể có chỗ lãnh hội.

10. Không giết hại, phóng sinh; việc đơn giản, lý lại sâu

Đại sư Ấn Quang thường nói: ”Việc không giết hại và phóng sinh cạn mà dễ thấy. Lý của việc không giết hại và phóng sinh sâu lại khó biết”. Chúng ta không đạt đến chỗ lý và sự viên dung đầy đủ như chư vị Tổ sư, nhưng chỉ cần chúng ta có thể đích thân thực hành, thành thật phóng sinh là được. Trên việc làm chân chánh, thực hành công phu, công đức vô hạn có thể đạt được. Đáng sợ nhất chính là tự mình không biết gì cả, chỉ biết phê bình huỷ báng. Không những tự mình không muốn phóng sinh, lại dùng thế trí biện thông (trí lưu loát của thế gian) và các thứ tà kiến làm cản trở người khác phóng sinh. Hạng người này vô tình giết chết vô số vô biên sinh mạng, tương lai hình phạt tàn khốc trong địa ngục tuyệt đối không sao tránh khỏi.

11. Phật pháp là môn giáo dục giác ngộ

Phật pháp là một môn giáo dục về sự giác ngộ. Giác ngộ được tội ác lớn nhất trần gian chính là ăn thịt và giết hại. Khi đã giác ngộ như vậy, chúng ta phải nhanh chóng sửa đổi lỗi lầm, liền trì giới và ăn chay. Biết được việc thiện lớn nhất trên thế gian chính là chuộc mạng phóng sinh, chúng ta phải đích thân thực hành và đề xướng rộng ra, mong mọi người thực hành. Còn biết thêm rằng chính trước đây đối với việc ăn chay và phóng sinh có nhiều lúc phê bình vì hiểu sai, nay phải cấp tốc sám hối và sửa sai, thề không bao giờ tái phạm. Đây chính là người có sự giác ngộ, mới xứng đáng là đệ tử chân chánh của Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/11/2020(Xem: 14590)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 9105)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 24300)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 13413)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 10827)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 12113)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
06/01/2020(Xem: 12951)
Đức Tổng Giám mục Colombo, Đức Hồng Y Malcolm Ranjith người Sri Lanka,Chủ tịch Hội đồng Giám mục Sri Lanka, phục vụ Giáo hội Công giáo La Mã của Thánh Matthew ở Ekala, Sri Lanka, gần đây đã nói điều gì đó dọc theo dòng “Nhân quyền đã trở thành tôn giáo mới nhất ở phương Tây. . . Người dân Sri Lanka đã nghiêng về con người thông qua Phật giáo, truyền thống tôn giáo chính thống của họ đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử. . . Những người không thực hành tôn giáo là những người bị treo lên Nhân quyền”.
04/01/2020(Xem: 9427)
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có thiền truyện thuật lại cuộc hỏi đáp giữa Triệu Châu và Nam Tuyền: " Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: 'Thế nào là đạo?' Nam Tuyền đáp : ‘Tâm bình thường là đạo’ (Bình Thường Tâm thị Đạo). _’Lại có thể nhằm tiến đến chăng?’ _ ‘Nghĩ nhằm tiến đến là trái’. _ ‘Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?’ _ ‘Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy’. Ngay nơi lời này Triệu Châu ngộ lý, bèn đi thọ giới...." Vậy, thế nào là “Tâm Bình Thường”?
08/12/2019(Xem: 27595)
Kính lễ Phật Pháp Tăng là thể hiện niềm tin sâu xa của Tứ chúng đệ tử đức Phật mỗi ngày đối với Tam bảo. Đệ tử Phật dù tu tập chứng A-la-hán vẫn suốt đời nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng không hề xao lãng. Các vị Bồ tát từ khi phát Bồ đề tâm, tu tập trải qua các địa vị từ Tín, Trú, Hạnh, Hướng, Địa cho đến Đẳng giác không phải chỉ nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng một đời mà đời đời, kiếp kiếp đều nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng. Nhờ sự nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng như vậy, mà Bồ tát không rơi mất hay quên lãng tâm bồ đề, khiến nhập được vào cảnh giới Tịnh độ không thể nghĩ bàn của chư Phật, nhập vào thể tính bất sinh diệt cùng khắp của Pháp và nhập vào bản thể hòa hợp-thanh tịnh, sự lý dung thông vô ngại của Tăng.
08/12/2019(Xem: 29449)
Phật Giáo và Những Dòng Suy Tư (sách pdf)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]