Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 6

16/01/201108:06(Xem: 4067)
Phần 6

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ CÁI TRÍ VÀ SUY NGHĨ
ON MIND AND THOUGHT
Lời dịch: ÔNG KHÔNG

BrockwoodPark, ngày 30 tháng 8 năm 1983

Từ quyểnThế giới Hòa bình

T

ất cả mọi điều chúng ta đang nói là: Suy nghĩ có cần thiết trong những lãnh vực nào đó, nó không cần thiết trong những lãnh vực khác. Điều đó đòi hỏi nhiều quan sát, chú ý, ân cần để tìm ra nơi nào suy nghĩ không cần thiết. Đúng chứ? Nhưng chúng ta quá nôn nóng, chúng ta muốn nắm bắt nó thật mau lẹ, giống như uống một viên thuốc chữa bệnh nhức đầu. Nhưng chúng ta không bao giờ tìm ra nguyên nhân của bệnh nhức đầu là gì.

_________________________________________________

BrockwoodPark, ngày 25 tháng 8 năm 1984

N

gười nói đang kể một câu chuyện hoang đường? Hay ông ta đang diễn tả hay phát biểu những sự kiện? Và những sự kiện đó là: Không có tình yêu. Người ta có thể nói về tình yêu, ‘Ồ, tôi thương yêu cô ấy nhiều lắm’ – bạn biết tất cả việc đó rất rõ. Và trong đó có sự phụ thuộc, sự quyến luyến, sự sợ hãi, sự thù hận, dần dần sự ghen tuông, toàn bộ máy của sự liên hệ con người cùng tất cả phiền muộn, sợ hãi, mất mát, lợi lộc, thất vọng, đau khổ của nó. Làm thế nào tất cả điều đó có thể kết thúc để cho chúng ta có sự liên hệ thực sự lẫn nhau, giữa người đàn ông và người đàn bà? Liệu nó là sự hiểu biết về lẫn nhau? Làm ơn, hãy quan sát nó, làm ơn hãy suy nghĩ nó. Tôi biết người vợ của tôi – mà có nghĩa gì? Khi bạn nói, ‘Tôi biết cô ấy, cô ấy là người vợ của tôi’, điều đó có nghĩa gì? Hay người bạn gái của tôi, hay bất kỳ người nào. Liệu nó là tất cả vui thú, đau khổ, lo âu, ghen tuông, đấu tranh cùng thỉnh thoảng những lóe sáng của hân hoan? Liệu tất cả điều đó là bộ phận của tình yêu? Liệu quyến luyến là tình yêu? Tôi đang đưa ra những câu hỏi này, hãy tìm hiểu nó, hãy tìm ra. Người ta quyến luyến đến người vợ của người ta, quyến luyến sâu đậm. Điều gì được bao hàm trong sự quyến luyến đó? Tôi không thể đứng một mình, vì vậy tôi phải phụ thuộc vào người nào đó, dù đó là một người vợ hay người chồng hay người phân tâm học hay người đạo sư nào đó, và tất cả vô lý đó! Nơi nào có quyến luyến, có sợ hãi mất mát, một ý thức của sự chiếm hữu sâu thẳm, và vì vậy nó nuôi dưỡng sự sợ hãi. Bạn biết tất cả điều này.

Vì vậy, liệu chúng ta có thể quan sát sự kiện của sự liên hệ của chúng ta và tự-khám phá cho chính chúng ta vị trí của suy nghĩ trong sự liên hệ? Như chúng ta đã nói, suy nghĩ bị giới hạn, mà là một sự kiện. Nếu trong sự liên hệ của chúng ta, suy nghĩ là một nhân tố nổi bật, vậy thì trong sự liên hệ đó nhân tố đó đang gây giới hạn, thế là sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta bị giới hạn và vì vậy chắc chắn phải nuôi dưỡng sự xung đột. Có sự xung đột giữa người Ả rập và người Do thái, bởi vì mỗi người đang bám vào tình trạng bị quy định riêng của anh ấy, mà có nghĩa đang bị lập trình; mỗi con người bị lập trình giống như một máy tính. Tôi biết nghe có vẻ tàn nhẫn lắm nhưng nó là một sự kiện. Khi bạn được bảo bạn là một người Ấn từ niên thiếu, phụ thuộc vào một loại tôn giáo hay xã hội nào đó, bạn bị quy định, và trong phần còn lại thuộc sống của bạn, bạn là người Ấn, hay người Anh, người Pháp, người Đức, hay người Nga, hay bất kỳ người gì. Vậy là kia kìa nó đây nè.

Vì vậy, sự liên hệ của chúng ta, mà đáng ra phải là sự việc lạ thường nhất trong sống, lại là một trong những nguyên nhân của sự phí phạm sống của chúng ta. Chúng ta đang phí phạm sống của chúng ta trong những liên hệ của chúng ta. Khi bạn thực sự thấy đây là một sự kiện, hãy trao sự chú ý của bạn vào nó, đó là, hãy hiểu rõ rất sâu thẳm bản chất của suy nghĩ và thời gian, mà không liên quan gì đến tình yêu. Suy nghĩ và thời gian là một chuyển động trong bộ não. Và tình yêu ở phía bên ngoài của bộ não. Làm ơn hãy thâm nhập điều này rất cẩn thận bởi vì cái gì ở phía bên trong của hộp sọ rất quan trọng, nó vận hành như thế nào, những cản trở của nó là gì, tại sao nó bị giới hạn, tại sao có ý thức liên tục này của huyên thuyên, suy nghĩ này đuổi theo suy nghĩ khác, một chuỗi của những hồi tưởng, những phản ứng, những phản hồi, toàn kho lưu trữ của ký ức, và chắc chắn ký ức không là tình yêu. Vì vậy, tình yêu không thể hiện diện, đúng chứ, phía bên trong của bộ não, phía bên trong của hộp sọ. Và khi chúng ta chỉ luôn luôn sống phía bên trong của hộp sọ, tất cả những ngày tháng thuộc sống của chúng ta, đang suy nghĩ, đang suy nghĩ, đang suy nghĩ, vấn đề tiếp nối vấn đề, mà là sống phía bên trong sự giới hạn, chắc chắn điều đó phải nuôi dưỡng sự xung đột và sự đau khổ.

_________________________________________________

Madras, ngày 2 tháng 1 năm 1983

Từ quyểnCái trí Không Đo lường

T

ừ bi là gì? – không phải sự định nghĩa mà bạn có thể tra cứu trong một quyển từ điển. Sự liên hệ giữa tình yêu và từ bi là gì, hay chúng là cùng chuyển động? Khi chúng ta sử dụng từ ngữ ‘sự liên hệ’, nó hàm ý một phân hai, một tách rời, nhưng chúng ta đang hỏi tình yêu có vị trí gì trong từ bi, hay tình yêu là sự diễn tả tột đỉnh của từ bi? Làm thế nào bạn có thể có từ bi nếu bạn phụ thuộc vào bất kỳ tôn giáo nào, theo sau bất kỳ đạo sư nào, tin tưởng cái gì đó, tin tưởng những quyển sách cổ xưa của bạn, và vân vân, bị quyến luyến vào một kết luận? Khi bạn chấp nhận vị đạo sư của bạn, bạn đã đến một kết luận; hay khi bạn tin tưởng mãnh liệt vào Thượng đế hay một đấng cứu rỗi, cái này hay cái kia, liệu có thể có từ bi? Bạn có lẽ làm công việc xã hội, giúp đỡ những người nghèo khổ do bởi thương hại, thông cảm, nhân từ; nhưng liệu tất cả điều đó là tình yêu và từ bi? Trong hiểu rõ bản chất của tình yêu, có chất lượng đó mà là cái trí trong quả tim, đó là thông minh. Thông minh là hiểu rõ hay khám phá tình yêu là gì. Thông minh không liên quan gì đến suy nghĩ, đến lanh lợi, đến hiểu biết.Bạn có lẽ rất lanh lợi trong công việc học hành của bạn, trong công việc của bạn, trong có thể tranh luận rất khéo léo, có lý lẽ, nhưng đó không là thông minh. Thông minh theo cùng tình yêu và từ bi, và bạn không thể bắt gặp thông minh đó như một cá thể. Từ bi không là từ bi của bạn hay từ bi của tôi, giống như suy nghĩ không là suy nghĩ của bạn hay suy nghĩ của tôi. Khi có thông minh, không có ‘tôi’ và ‘bạn’. Và thông minh không trú ngụ trong quả tim của bạn hay cái trí của bạn. Thông minh đó mà là tối thượng hiện diện khắp mọi nơi. Chính là thông minh đó mà chuyển động quả đất và những bầu trời và những vì sao, bởi vì đó là từ bi.

Bắt đầu dịch ngày: 13:00 ngày 29 tháng 7 năm 2010
Dịch xong: 14:00 ngày 23 tháng 8 năm 2010
Kết thúc: 15:00 ngày 07 tháng 12 năm 2010
In sach:16-2-2010


Đã dịch:
1 – Sổ tay của Krishnamurti
Krishnamurti’s Notebook
2 – Ghi chép của Krishnamurti
Krishnamurti’s Journal
3 – Krishnamurti độc thoại
Krishnamurti to Himself
4 – Ngẫm nghĩ cùng Krishnamurti
Daily Meditation with Krishnamurti
5 – Thiền định 1969
Meditation 1969
6 – Thư gửi trường học
Letters to Schools
7 – Nói chuyện cuối cùng 1985 tại Saanen
Last Talks at Saanen 1985
8 – Nghĩ về những việc này
Think on these things
9 – Tương lai là ngay lúc này
The Future is now
10 – Bàn về Thượng đế
On God
11– Bàn về liên hệ
On Relationship
12 – Bàn về giáo dục
On Education
13 – Bàn về sống và chết
On living and dying
14 – Bàn về tình yêu và sự cô độc [2-2009]
On Love and Loneliness
15 – Sự thức dậy của thông minh Tập I/II [2009 ]
The Awakening of Intelligence
16 – Bàn về xung đột [4-2009]
On Conflict
17 – Bàn về sợ hãi
On Fear
18 – Vượt khỏi bạo lực [6-2009]
Beyond Violence
19 – Bàn về học hành và hiểu biết [8-2009]
On Learning and Knowledge
20 – Sự thức dậy của thông minh Tập II/II [12-2009 ]
The Awakening of Intelligence
21 – Nghi vấn không đáp án [2009]
The Impossible Question
22 – Tự do đầu tiên và cuối cùng [4-2010]
The First and Last Freedom
23 – Bàn về cách kiếm sống đúng đắn [5-2010]
On Right Livelihood
24– Bàn về thiên nhiên và môi trường [5-2010]
On Nature and The Environment
25– Tương lai của nhân loại [5-2010]
The Future of Humanity
26– Đoạn kết của thời gian
The Ending of Time [5-2010]
27– Sống chết của Krishnamurti – 2009
The Life and Death of Krishnamurti
A Biography by Mary Lutyens [Đã dịch xong]
28–Trách nhiệm với xã hội [6-2010]
Social Responsibility
29– Cá thể và xã hội [7-2010]
Individual & society
30– Cái gương của sự liên hệ [11-2010]
The Mirror of Relationship
31­– Bàn về cái trí và suy nghĩ [8-2010]
On mind & thought

Đón đọc:
Bàn về Sự thật
On Truth
Truyền thống và Cách mạng
Tradition & Revolution
Tại sao bạn được giáo dục?
Why are you being educated?
Tiểu sử của Krishnamurti
Krishnamurti's biography by Pupul Jayakar
Beginnings of Learning
Những khởi đầu của học hành

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/11/2020(Xem: 14589)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 9105)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 24300)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 13413)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 10827)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 12113)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
06/01/2020(Xem: 12951)
Đức Tổng Giám mục Colombo, Đức Hồng Y Malcolm Ranjith người Sri Lanka,Chủ tịch Hội đồng Giám mục Sri Lanka, phục vụ Giáo hội Công giáo La Mã của Thánh Matthew ở Ekala, Sri Lanka, gần đây đã nói điều gì đó dọc theo dòng “Nhân quyền đã trở thành tôn giáo mới nhất ở phương Tây. . . Người dân Sri Lanka đã nghiêng về con người thông qua Phật giáo, truyền thống tôn giáo chính thống của họ đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử. . . Những người không thực hành tôn giáo là những người bị treo lên Nhân quyền”.
04/01/2020(Xem: 9427)
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có thiền truyện thuật lại cuộc hỏi đáp giữa Triệu Châu và Nam Tuyền: " Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: 'Thế nào là đạo?' Nam Tuyền đáp : ‘Tâm bình thường là đạo’ (Bình Thường Tâm thị Đạo). _’Lại có thể nhằm tiến đến chăng?’ _ ‘Nghĩ nhằm tiến đến là trái’. _ ‘Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?’ _ ‘Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy’. Ngay nơi lời này Triệu Châu ngộ lý, bèn đi thọ giới...." Vậy, thế nào là “Tâm Bình Thường”?
08/12/2019(Xem: 27594)
Kính lễ Phật Pháp Tăng là thể hiện niềm tin sâu xa của Tứ chúng đệ tử đức Phật mỗi ngày đối với Tam bảo. Đệ tử Phật dù tu tập chứng A-la-hán vẫn suốt đời nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng không hề xao lãng. Các vị Bồ tát từ khi phát Bồ đề tâm, tu tập trải qua các địa vị từ Tín, Trú, Hạnh, Hướng, Địa cho đến Đẳng giác không phải chỉ nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng một đời mà đời đời, kiếp kiếp đều nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng. Nhờ sự nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng như vậy, mà Bồ tát không rơi mất hay quên lãng tâm bồ đề, khiến nhập được vào cảnh giới Tịnh độ không thể nghĩ bàn của chư Phật, nhập vào thể tính bất sinh diệt cùng khắp của Pháp và nhập vào bản thể hòa hợp-thanh tịnh, sự lý dung thông vô ngại của Tăng.
08/12/2019(Xem: 29449)
Phật Giáo và Những Dòng Suy Tư (sách pdf)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]