Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạt Lai Lạt Ma tại Harvard & Nhập Trung Đạo Cương Yếu

17/11/201016:14(Xem: 16194)
Đạt Lai Lạt Ma tại Harvard & Nhập Trung Đạo Cương Yếu
Dalai_Lama (89)

ĐẠT LAI LẠT MA TẠI HARVARD
& NHẬP TRUNG ĐẠO CƯƠNG YẾU

Chân Nguyên dịch

Vàinét về bản dịch Việt ngữ

Vềnội dung

Sáchnày có hai phần: Đạt-lại Lạt-ma tại Harvard, bao gồm cáckhóa trình được thực hiện tại đại học Harvard, đượcgiáo sư Jeffrey Hopkins dịch từ Tạng sang Anh ngữ và Nhậptrung đạo cương yếu — một tiểu luận về Tính không đượcĐạt-lại Lạt-ma đích thân biên soạn bằng Tạng ngữ.

Phầnđầu được dịch từ hai bản ngoại ngữ, bản Anh ngữ củagiáo sư Hopkins dưới tựa »The Dalai Lama at Harvard — Lectureson the Bud­dhist Path to Peace« (Snow Lion Publications, Ithaca New York14851, USA 1988) và bản dịch từ Anh sang Đức ngữ dưới tên»Ein­füh­rung in den Buddhis­mus — Die Harvard Vor­lesungen« củaChris­tof Spitz (»Phật học nhập môn — Các khóa trình tạiHarvard«, Herder Ver­lag, Freiburg im Breisgau, 1993; cũng có tựakhác là »Die Vorträge in Har­vard«, »Các khóa trình tại Harvard«,Aquamarin Verlag, Grafing, 1991). Vì những điểm khó hiểu, cựckì phức tạp của các vấn đề được Đạt-lại Lạt-matrình bày nên dịch giả người Việt phải sử dụng cả haibản dịch để có thể hiểu và trình bày tinh xác hơn.

Trongbản Anh và Đức ngữ có một điểm bất đồng rất lớngiữa những đoạn văn mà trong đó, Đạt-lại Lạt-ma trìnhbày, diễn giảng rất trực tiếp, rất cụ thể, dễ hiểu— thậm chí khôi hài —, và những đoạn văn cực kì phứctạp, trình bày triết lí Tính không, Nhận thức học, Tâmlí học Phật giáo, những điểm mà độc giả chỉ có thểthông hiểu được khi đã đọc đi đọc lại nhiều lần mộtđoạn văn và làm quen với cách sử dụng thuật ngữ hếtsức tinh tế của Đạt-lại Lạt-ma. Thỉnh thoảng dịch giảphải biến đổi cấu trúc của văn bản để có thể trìnhbày bằng Việt ngữ một cách thích hợp.

Chínhvì những điểm hết sức phức tạp của phần đầu mà dịchgiả quyết định đưa thêm vào tiểu luận Nhập trung đạocương yếu với mục đích làm sáng tỏ những đoạn văn trùngphức, tối nghĩa trong phần đầu. Nhập trung đạo cương yếucó tên Tạng ngữ »dbu ma'i lde mig«, Jürgen Manshardt (Tỉ-khâuDscham­pa Dönsang) dịch sang Đức ngữ dưới tên »Der Schlüsselzum Mittleren Weg«, được Trung tâm Tây Tạng (Tibe­tisches Zentrume. V. Hamburg) tại Cộng Hòa Liên Bang Đức xuất bản. Độcgiả nào muốn tham khảo phần này bằng Anh ngữ có thể sửdụng bản dịch của giáo sư J. Hopkins dưới tên »The Buddhismof Tibet and The Key to the Middle Way« (Unwin Hyman, London, Eng­land).

Vềdịch thuật

Ghichú ở cuối mỗi chương trong phần Đạt-lại Lạt-ma tạiHarvard được giáo sư Hopkins thực hiện. Ghi chú của dịchgiả người Việt cũng như dịch giả người Đức đượcđánh dấu riêng và ghi trong ngoặc. Cước chú trong cả haiphần được dịch giả người Việt đưa vào.

Đểtránh trường hợp gây phức tạp thêm những gì vốn đã khóhiểu, trong phần đầu, dịch giả không ghi thêm những thuậtngữ Phạn hoặc Tạng ngữ tương ưng trong chính bản văn màchỉ thêm vào dưới dạng cước chú — trong trường hợpchúng chưa được giáo sư J. Hopkins lưu ý đến trong tổngmục ghi chú sau mỗi chương. Trong phần hai và Từ vị, dịchgiả mạnh dạn đưa vào những thuật ngữ ngay trong chính bản— chúng được được ghi trong ngoặc đơn và viết nghiêng—, vì quan niệm phần này dành cho những người muốn tìmhiểu thêm, đã thông thạo một vài thuật ngữ ở đây. MụcTừ vị và bảng đối hiếu thuật ngữ được dịch giảngười Việt đưa vào để làm sáng tỏ thêm những gì đượctrình bày. Ai muốn tìm hiểu thêm về những thuật ngữ Phậtgiáo Tây Tạng có thể tham khảo thêm quyển Từ Điển PhậtHọc của Nguyễn Tường Bách và dịch giả.

Nhữngđiểm cần được lưu ý:

1.Danh từ phenomenon của tiếng Anh (Phạn: dharma, Tạng: chos, Đức:Phä­nomen) được dịch là »hiện tượng« thay vì »pháp«(trong trường hợp nó không có nghĩa là Phật pháp) để dễhiểu và tương ưng với ngôn ngữ phổ biến hiện nay. Nhưngthỉnh thoảng cũng được biến chuyển để câu văn đượcxuôi tai hơn.

2.Tính từ exact (Đức: exakt) và precise (Đức: präzis) đượcdịch là tinh xác, hai tính từ correct (Đức: korrekt) và valid(Đức: gültig) được dịch là chính xác (với ý nghĩa »đúngđắn [chính] và rõ ràng [xác]«), đúng đắn, có giá trị— tùy theo trường hợp.

3.Một biểu thị rất quan trọng trong bản dịch này là Tồntại trên cơ sở (bản) tự tính, được dịch từ danh từinherent existence của Anh ngữ hoặc Đức ngữ in­här­ente Existenz.Danh từ Phạn ngữ tương ưng là svabhāvasiddhi. Svabhāva cónghĩa là »tự tính«, siddhi có nghĩa »thành tựu« hoặc »khởilập«. Cả ba dịch giả, giáo sư J. Hopkins cũng như Ch. Spitzvà J. Manshardt đều dịch svabhāvasiddhi từ đầu đến cuốisách là »inhe­rent existence (inhärente Exis­tenz)«. Tính từ»inhe­rent« có nghĩa là »nội tại«, »cố hữu« và nhưthế, »inherent existence« có nghĩa là một cách »Tồn tạitrên cơ sở tự tính«. Trong một vài đoạn văn, dịch giảrất có thể dùng chữ »tự ngã«, »tự tính«, »bản tính«,hoặc »ngã« thay vào »Tồn tại trên cơ sở tự tính« —nhưng không thực hiện vì muốn trình bày bản dịch nhấtquán và vì những nguyên do khác mà độc giả sẽ tự hiểusau khi đọc dịch bản. »Tồn tại bởi tự tính«, »Tồntại trên cơ sở cố hữu« là những biến dạng đồng nghĩatrong bản dịch này.

4.Dịch giả cố gắng trình bày tất cả bằng Việt ngữ, giảmthành phần thuật ngữ chữ Hán nhưng rất nhiều trường hợp,rất nhiều đoạn văn không cho phép. Ví dụ như trường hợpdịch chữ Anh ngữ continum of mind (Phạn ngữ: saṃtāna hoặctantra). Nếu chỉ dịch đơn thuần là »dòng tâm thức« thìtất cả những khía cạnh, ý nghĩa của biểu thị continuumnày không được trình bày trọn vẹn. Vì vậy dịch giả đànhphải sử dụng thuật ngữ Hán việt rất tinh xác là »liêntục thống nhất thể (của tâm thức)«. Trong trường hợpkhông tránh được những thuật ngữ Hán việt đặc thù Phậtgiáo thì cước chú kèm theo sẽ làm sáng tỏ vấn đề hơn.Và ngược lại, trong trường hợp dịch giả biết rõ cácthuật ngữ Hán việt tương ưng thì chúng sẽ được ghi thêmvào dưới dạng cước chú. Bảng đối chiếu thuật ngữ trongphần Từ vị có thể giúp độc giả xác định từ nguyênvà cách dịch được áp dụng trong dịch phẩm này.

Cáchphát âm Phạn và Tạng ngữ

Phạnngữ được trình bày ở đây dưới dạng phổ biến nhấttrong kinh sách Phật giáo nước ngoài. Sau đây là một vàiqui tắc phát âm cơ bản, giản lược:

c
nhưch của Anh ngữ. Cakra được đọc như chakra

ṃ,ṅ
phátâm gần như -ng, nhưng kéo dài một chút, ví dụ như saṃ-sā-ranhư sang-sā-ra, kéo dài ng- với giọng mũi.


phátâm như ri, đọc nhanh, phớt qua chữ y. Rajāgṛha đọc nhưra-jā-gri-ha. Ṛddhi đọc như riddhi.

ś,ṣ
nhưsh trong Anh ngữ, ś được phát âm mạnh hơn ṣ một chút,ś như (t)sh và ṣ như (d)sh. Śikṣāsamuucaya được đọc nhưshik-sh-sa-much-cha-ya.

ū
đọcnhư u Việt ngữ kéo dài

ā
đọcnhư a Việt ngữ kéo dài

ō
đọcnhư ô Việt ngữ kéo dài

e
đọcnhư ê Việt ngữ kéo dài

ī
đọcnhư y Việt ngữ kéo dài

Nhữngdấu chấm dưới các chữ sau có thể bỏ qua như ḍ, ḷ, ṭ,ṇ. Dh được đọc như d với chữ h thật nhanh phía sau nhưdhātu.

Trongđộc bản, Tạng ngữ được trình bày dưới dạng Hán việthoặc cách dịch âm Việt hóa, có thể đọc gần như tiếngViệt; trong cước chú, ghi chú và Từ vị được la-tinh hóatheo hệ thống của Turrell Wylie (xem thêm trong »A Stan­dard Systemof Tibetan Tran­scrip­tion«, Harvard Journal of Asiatic Studies, vol.22, 1959, trang 261-267).

Viếttắt

engl.:Anh ngữ; ger.: Đức ngữ; jap.: Nhật ngữ; skrt.: Phạn ngữ;tibet.: Tạng ngữ; tk.: Thế kỉ;

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/05/2013(Xem: 5046)
Theo Phật giáo, sự thay đổi nào cũng đều có thể truy về quy luật nhân quả. Do đó, truy tìm nguyên nhân đưa đến sự thịnh suy và tìm kiếm giải pháp để duy trì sự cường thịnh và tránh sự suy vong của Phật giáo là một việc đáng làm, nhất là trong giai đoạn Phật giáo đang đối mặt với nhiều thách thức mới.
10/04/2013(Xem: 5494)
Tâm lý con người có hai hướng vận hành: một là khổ đau hay dẫn đến khổ đau, kia là hạnh phúc hay dẫn đến hạnh phúc. Hướng thứ nhất mở ra một thế giới tâm lý của sinh tử; hướng thứ hai mở ra thế giới tâm lý của giải thoát. Bởi sống là đi tìm hạnh phúc chân thật, nên con người chỉ có một chọn lựa là đi vào hướng vận hành thứ hai. Đi vào hướng vận hành này là đi vào trí tuệ, hay đi từng bước đi trí tuệ. Thực hiện con đường thứ hai này có nghĩa là "xây dựng vương quốc trí tuệ" của Phật giáo mà thuật ngữ gọi là Dhammacakkapavattana – thường được dịch là "Chuyển vận bánh xe Pháp".
09/04/2013(Xem: 5784)
Mục đích của tâm lý trị liệu pháp là để chữa trị, thoa dịu và làm vơi bớt nỗi khổ đau của những người đang bị dày vò bởi nhiều vấn đề nan giải trong cuộc sống, hay những người được chẩn đoán là đang mắc bệnh tâm thần.
09/04/2013(Xem: 12449)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt. Trời đất như đã thay loài người nói lên ý nghĩa của sự sống, . . .
09/04/2013(Xem: 2103)
Ngược dòng thời gian năm 1984, tôi viết quyển sách đầu tiên ‘Chìa Khóa cho người Tỵ Nạn’ dành cho những người tỵ nạn Đông Nam Á, giúp họ giữ vững niềm tin và hiểu biết tường tận hơn về tôn giáo của mình để đối đầu với các hành động có hậu ý của các nhà truyền giáo Ki tô muốn họ cải đạo.
09/04/2013(Xem: 10270)
Tất cả chúng sanh đều vô thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật-pháp mà tạo ra các nghiệp, rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay vành mãi theo bánh xe sanh tử luân-hồi. Nếu con người hiểu rỏ một cách chắc chắn rằng: tất cả các pháp trong vũ-trụ, nhân và ngã đều không thật có, chỉ do thức biến hiện, như cảnh trong chiêm bao, mà không còn gây phiền não, tạo nghiệp-chướng nữa, thì tất không còn bị ràng buộc, trong bánh xe sanh tử luân hồi. Để phá trừ hai món chấp thật-ngã và thật-pháp, Đức-Phật có rất nhiều phương-pháp, có rất nhiều pháp thiền, mà Duy-Thức-Tôn hay Pháp-tướng-tôn là một pháp tu rất cần thiết, rất hiệu-nghiệm để đi đến giải-thoát.
08/04/2013(Xem: 18358)
"Lý thuyết Nhân tính qua kinh tạng Pàli" là đề tài luận án Tiến sĩ do Thượng tọa Thích Chơn Thiện thực hiện và đệ trình tại Ðại học Delhi. Thượng tọa được cấp phát văn bằng Tiến sĩ Triết học trong lễ Tốt nghiệp lần thứ 73, ngày 13 tháng 4 năm 1996.
08/04/2013(Xem: 13465)
Tập sách này in lại những bài viết về Trung Quán Luận, đã đăng trong Nguyệt San Phật Học. Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai. Trong những tác phẩm của người, Trung Quán Luận trình bày tánh Không, phần tinh túy của giáo lý đạo Phật.
08/04/2013(Xem: 26188)
Cuốn sách này gạn lọc trí tuệ hàng ngàn năm của Phật Giáo Tây Tạng, được chuyển tải bằng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Mục đích chính yếu của tôi là trình bày những giáo lý không chỉ có tính cách chữa trị sự đau khổ và vô minh của chúng ta về sự chết và sự hấp hối mà còn giúp chúng ta chứng đạt mục tiêu an lạc vô thượng, không những cho đời này mà còn cho sự chết và cõi bên kia nữa.
08/04/2013(Xem: 621)
Hàng năm khi những ngày đông ảm đạm giá rét trôi qua, bầu trời lại được sưởi ấm và trên những cành cây trụi lá đã nẩy lộc đơm hoa, lòng người theo đó cũng hớn hở đón xuân với bao niềm ước vọng. Trong khung cảnh Minh niên đầy hân hoan, lòng người con Phật lại thành kính hướng về Tam Bảo để cầu nguyện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]