Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Thường

10/05/201205:36(Xem: 3667)
Vô Thường

VÔTHƯỜNG

HòaThượng Thích Thiện Siêu

Người đời khi đã phát nguyện quy y Tam Bảo là họ đã an trú trong ngôi nhà Như Lai, vìđó là ngôi nhà an vui vĩnh viễn nhất. Chánh pháp Như Lai là hào quang chân lý,giúp cho chúng sanh phân định được đâu là tính chất mê muội, luân hồi và đâu làgiác ngộ, giải thoát. Chánh pháp Như Lai còn soi sáng cho chúng sanh phá tanmàn vô minh điên đảo để dứt trừ mọi sai lầm đau khổ. Cho nên trong kinh Pháp Cúcó dạy: "Vì sợ hãi bất an mà đến quy y thần núi, quy y thần cây, quy ymiếu thờ thổ thần nhưng đó chẳng phải là chỗ nương dựa yên ổn, là chỗ quy y tốithượng. Ai quy y như thế khổ não vẫn còn nguyên. Trái lại quy y Phật, quy yPháp, quy y Tăng, phát trí tuệ chân chính, hiểu thấu bốn lẽ mầu: biết khổ, biếtkhổ nhân, biết khổ diệt và biết tám chi Thánh đạo diệt trừ khổ não; đó là chỗquy y an ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy y như vậy, giải thoát hết đaukhổ".

Vìkhông nhận chân đúng lời Phật dạy, nên chúng sanh sống trong cảnh vọng tưởng màkhởi tà kiến: vô thường chấp là thường, vô ngã chấp là ngã, không thanh tịnhchấp là thanh tịnh, khổ đau chấp là an lạc, nên bị luân hồi và đau khổ triềnmiên.

Tấtcả mọi sự vật trong thế gian này đều phải biến chuyển không ngừng: chúng luônluôn sanh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Thế giới không một vậtnào tồn tại vĩnh viễn và có thể đứng yên một chỗ; tất cả đều vô thường, khôngnhững vô thường trong từng năm, tháng, ngày, giờ mà còn vô thường trong từng sát-nasanh diệt.

Đốivới con người cũng vậy, hôm nay tóc còn đen nhánh, ngày mai soi gương lại đãthấy bạc đầu. Hôm nay làn da còn tươi láng, ngày mai đã thấy nếp nhăn nheo.

Vũtrụ, sơn hà, đại địa, dù rất to lớn khiến chúng ta tưởng lầm nó là kiên cố,nhưng thật ra nó cũng chịu sự biến hoại vô thường không kém. Hòn núi kia khichúng ta chưa sanh nó đã có, đến khi chúng ta nhắm mắt nó vẫn còn. Chúng tatưởng hòn núi đó là thường; cho đến của cải vật chất, nhà cửa chúng ta cũngtưởng lầm như thế. Vì tưởng lầm nên chúng ta quay cuồng trong vòng điên đảo,đem cái tâm tham, sân, si để giành giựt lấy những gì chúng ta cho là quý, làthường, là chân thật, nên mới gây ra biết bao đau khổ xấu xa, thậm chí đôi lúccòn giành giựt nhau từng đồng bạc, từng chút địa vị, từng lời ăn tiếng nói,từng bước đi, từng cử chỉ... Đến như cái thân của chúng ta do tứ đại (đất,nước, gió, lửa) hợp thành, do năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cấu tạonên, từ khi cha mẹ sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời, không biết bao nhiêulần biến chuyển đổi thay cho đến các tế bào trong cơ thể chúng ta cũng thay đổitrong từng giờ, từng khắc mà chúng ta không hay, không biết.

Thânthể của mọi người đều vô thường như thế - Đôi lúc chúng ta cũng biết như thế,nhưng chính chúng ta vẫn cứ mong thân của chúng ta tồn tại mãi mãi, tại vì lòngtham, chấp ngã, nên chúng ta thấy "ta" là quý hơn tất cả mọi người,chỉ có "ta" mới đáng được trọng vọng, khen ngợi, còn người khác thìkhông nên trọng vọng, khen ngợi. Chính là vì lòng chấp ngã, ích kỷ, ganh tthamlam của chúng ta mà ra.

Vảlại trong ta có những lúc tham, lúc giận, lúc si, nhưng cũng có những lúc từbi, hỷ xả, tâm muốn bố thí giúp ích mọi người. Vậy nếu nói lúc tham là ta vàlúc giận, lúc si, lúc bố thí, lúc từ bi, hỷ xả cũng là ta; thế thì, chính trongmột bản thân ta hóa ra có không biết bao nhiêu cái ta. Thử hỏi trong những cáita đó cái nào đích thực là ta? Khi ta tham lam thì cái tham đó thật là ta; khita giận, cái giận đó thật là ta, hay khi ta kiêu mạn, tật đố cái kiêu mạn, tậtđố đó là ta? Nếu nói tham là ta thì ta sẽ là con người tham mãi không bao giờthay đổi được! Nếu nói kiêu mạn, tật đố là ta, thì kiêu mạn tật đố không baogiờ thay đổi được! Nhưng không, dù có kiêu mạn, tật đố nhưng khi biết tu hành,phá trừ kiêu mạn, sống một cách khiêm tốn, thì có thể thay đổi được. Dù thamlam nhưng nếu hiểu được đạo lý thì cũng có thể chuyển đổi được lòng tham lam ralòng bố thí.

Rõràng, tâm của chúng ta luôn luôn thay đổi, thân thể của chúng ta cũng thay đổikhông ngừng, không có lúc nào thật là ta cả. Ngay trong giờ phút ta tự nghĩ tađây là ta, thì lời nói ta đó cũng đã sai đi rồi. Bởi vì trong lúc ta nói tađây, thì chính ảnh tượng mà ta tưởng là ta đó cũng đổi khác đi rồi. Tâm hồn tagiờ này không còn như giờ phút trước. Cho nên, vừa mới mở miệng nhắc đến cái tathì cái ta đó đã bay đi mất. Thế mà vì không hiểu, cho nên cứ đinh ninh rằng:"Ta đây, ta quý hơn tất cả, muốn được tất cả mọi người tôn trọng, khenngợi, và tuyệt đối không ai được chê ta hết. Nhưng ngược lại ta cũng không muốntôn trọng và khen ngợi ai cả". Cái ta nó làm cho con người điên đảo, hẹphòi như vậy đó.

Chonên, chúng sanh đau khổ là vì vô ngã mà chấp là ngã, không ta mà chấp thật làta. Ai biết nhìn kỹ thân thể của mình, qua pháp môn "Bất tịnh quán"như đức Phật đã dạy thì sẽ thấy toàn thân chất chứa những đồ bất tịnh, nếu bỏlớp da ngoài thì ai cũng dơ bẩn như ai. Cái bất tịnh ấy đã có từ trong bàothai, và khi lọt lòng mẹ cũng đã bất tịnh rồi. Dù được trang điểm bao nhiêucũng chỉ là cái thân bất tịnh, cho đến khi nhắm mắt tắt thở, nó cũng là bấttịnh. Đối với cái thân bất tịnh này rõ ràng như vậy mà chúng ta không nhậnthấy; ngược lại còn chấp cái thân này là tịnh, nên nâng niu, chiều chuộng, trauchuốt nó quá đáng. Vì mù quáng đối với thân vô thường, lại cho là thường nên conngười luôn luôn đau khổ vì nó.

Ngàyxưa có nàng Liên Hoa Sắc, khi nghe đức Phật dạy về đạo lý vô thường, rằng thânthể bất tịnh, chúng sanh bất tịnh, hữu tình bất tịnh, thì cô ta liền phát tâmmuốn đi tu. Nhưng trên bước đường đi tu ngang qua một dòng sông, cô xuống sôngrửa mặt, nhìn thấy bóng mình dưới nước có gương mặt quá đẹp, cô nghĩ thầm:"Mình đẹp như thế này mà đi tu thì uổng quá!" Cô bèn quay trở lại.Bạn bè gặp cô trở về bèn hỏi: "Tại sao trước kia chị phát tâm dõng mãnh,muốn đến đức Phật để cầu xin xuất gia, tu hành, bây giờ chị lại thối chí trởlui là thế nào?" Cô ta trả lời rằng: "Ôi! Tôi đẹp quá như thế này màđi tu làm gì cho uổng!" Họ hỏi: "Vậy chị đẹp như thế nào?" Cô tatrả lời: "Tôi soi mặt dưới nước thấy cái bóng của tôi phản chiếu dưới đó,hết sức là đẹp".

Quacâu chuyện trên, chúng ta thấy rằng: Cái đẹp của cô ta chỉ là cái đẹp phảnchiếu lại lòng tham đắm xác thân chứ đối với người khác chưa chắc đã đẹp, vàđôi với loài cá dưới nước khi thấy bóng cô ta thì phải chạy trốn xa. Cô ta thấycái bóng mình dưới nước cho là đẹp, vì nghĩ lầm cái thân là đẹp, không ngờ nóđang xấu, đang hủy hoại từ từ mà cô ta không biết không hay!

Chonên trong kinh Xà Dụ, đức Phật dạy:

"Nàycác Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường? Bạch Thế Tôn, vô thường. Cái gì vôthường là khổ hay lạc? Bạch Thế Tôn, khổ... Do vậy này các Tỷ-kheo, cái gìkhông phải của các ngươi, hãy từ bỏ thì sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài chocác ngươi. Trong bốn sự thật mà đức Phật dạy, sự thật đầu tiên là khổ (dukkha).Ngài nói cuộc đời dù có vui mấy cũng chỉ là cái vui mong manh, rốt cuộc khôngthoát ly sự khổ được. Ngài dạy: Chúng sanh mang không biết bao nhiêu cái khổtrong người: sanh, già, bệnh, chết là khổ. Đó là cái khổ thường tình ai cũngnhận thấy, cái khổ tự nhiên ai cũng mắc phải, hoặc ít hoặc nhiều không ai tránhkhỏi. Nếu một em bé sanh ra không khổ thì nó đã không cất ba tiếng khóc oa oaoa khi mới lọt lòng. Nếu một người bịnh không khổ thì họ đã không rên xiết.Người già không khổ thì đã không than phiền mắt mờ tai điếc, và một người chếtkhông khổ thì đã không ai khóc. Thế mới biết sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chếtkhổ là một sự thật hiển nhiên mà đức Phật đã từng tuyên bố. Ngoài cái khổ đócòn những cái khổ khác như: Những điều mình ưa, những người mình thích, những đồvật mình ham muốn tưởng rằng đó là của mình, mình là cái đó, nó sẽ gắn liền vớimình không bao giờ rời xa được. Nhưng vì hoàn cảnh, vì luật vô thường, nhữngthứ đó nó rời khỏi tầm tay, không cách gì cầm giữ lại được. Đó chính là ái biệtly khổ.

Đốivới những người, những vật mình ghét, muốn tránh cho khuất mắt mà không thểtránh được; mình muốn lờ đi nhưng nó cứ hiện ra trước mặt. Trên một con đường,ai cũng muốn đi trên con đường sạch sẽ, có hoa thơm, cỏ lạ, không ai muốn đitrên con đường lầy lội, đầy gai góc hiểm độc ấy, muốn tránh nhưng bước đâuvướng đó, muốn né nhưng đi đâu vấp đó. Đối với sự vật bên ngoài đã vậy, còn đốivới người xung quanh, có người ta ưa thích, nhưng cũng có người ta ghét, takhông ưa vì lẽ này hay lẽ khác. Nhưng ở giữa hai cái ưa và không ưa đó cũng tạonên một cảnh ghét mà phải gặp là khổ, cho nên tục ngữ ta có câu: "Ghét củanào trời trao của ấy". Bên này oán bên kia và bên kia oán bên này. Một khiđã oán nhau như vậy thì vũ trụ bao la trở thành thu hẹp lại một góc. Gặp một ngườioán ghét ta muốn tránh, nhưng tránh hoài đến nỗi hết muốn gặp mà cũng không saotránh được. Vũ trụ bao la trong giờ phút này trở nên chật hẹp đến nỗi ta tưởngnó không còn một chỗ an toàn cho ta dung thân. Đó là cảnh oán tắng hội khổ.Cảnh này nếu nằm trong gia đình, trong thân tộc, trong bản thân của mỗi ngườithì lại càng khổ hơn nữa.

Chúngsanh luôn luôn nuôi dưỡng lòng tham muốn và mong cầu, đối với cuộc đời này họchưa một lần biết đủ, cảm thấy mình như một người thiếu thốn, họ tìm đủ mọicách để ôm trọn thế gian này. Nhưng tiếc thay! Sự sống con người thật ngắnngủi, một trăm năm không đủ bề dày thời gian để làm thỏa mãn lòng tham của họ,vì vậy họ chịu khổ đau suốt đời vì ham muốn nhiều mà nhận chẳng được bao nhiêu,gọi là cầu bất đắc khổ.

Dẫucó người cho rằng đời còn có nhiều thú vui chứ đâu phải khổ hết. Coi xi-nê, coihát, bài bạc, rượu chè cũng vui, trúng số độc đắc hay làm quan cũng vui. ĐứcPhật không phủ nhận điều đó, nhưng Ngài nói: Cái vui đó là cái vui mong manhtrong đau khổ, cái vui còn vướng trong vô minh nghiệp chướng đưa đến khổ đaucàng sâu dày thêm. Cho nên có một nhà thơ Việt Nam viết:

"Bểkhổ mênh mông nước ngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi,
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
Ngẫm lại cùng trong bể khổ thôi".

Ngượcgió hay xuôi gió, chiếc thuyền cũng ở trong biển mà thôi, không thể vượt lêntrên biển được. Cho nên cái vui của con người trong cảnh trầm luân này là cáivui trong đau khổ của thế gian, chưa phải là cái vui giải thoát. Do thế, đứcPhật nói đời là đau khổ, mặc dù chúng sanh cho đời là vui, rồi say đắm theođời, không giờ phút nào rời khỏi, cho đến một ngày nào đó phải nhắm mắt tắtthở, bấy giờ mới hoảng hốt, khổ đau!

Nếubiết đem toàn tâm lực an trú trong Chánh pháp thì sẽ nhận rõ lời đó của đứcPhật: tất cả sự vật là vô thường, chúng sanh là vô ngã, thân thể là bất tịnh,mọi sự lãnh thọ đều là khổ: dù là thọ khổ hay thọ vui, cũng đều ở trong vòngtương đối. Đã ở trong vòng tương đối thì có sanh diệt, có sanh diệt tất nhiênlòng chúng ta không thỏa mãn, nên sanh ra đau khổ. Đức Phật vì đại sự nhânduyên đó mà ra đời, để chuyển mê khai ngộ cho chúng sanh. Mục đích tu hành củangười tu Phật là để chuyển nghiệp. Ngài dạy rằng: "Nghiệp dắt thế giantới, nghiệp kéo thế gian đi, thế gian chuyển theo nghiệp, như bánh xe lăn theochân con vật kéo xe". Con vật kéo xe đi vào trong con đường tối tăm mù mịtthì bánh xe cũng phải lăn theo. Chúng sanh lăn theo nghiệp cũng tương tự nhưthế. Mỗi người đều có những nghiệp riêng, nghiệp tốt thì làm cho con người tốt,nghiệp xấu thì làm cho con người xấu, nghiệp cao thượng thì trở thành con ngườicao thượng, và nghiệp thấp hèn thì trở thành con người thấp hèn. Tất cả đều donghiệp. Nghiệp là bào thai, nghiệp là sở hữu, cho nên khi sanh ra, khi chết đi,ta cũng chỉ một mình đi theo nghiệp chớ không có ai đi theo ta hết. Không aithay thế ta để đi theo trong khi ta sanh, già, bịnh, chết với cái nghiệp của tamà thôi. Cái nghiệp luôn luôn đi theo ta như bóng theo hình. Những người tạonghiệp lành thì có những người bạn lành cùng đi theo. Những người tạo nghiệp dữthì có những kẻ oan gia thù hận đi theo. Người tạo nghiệp lành thì như mangbình cam lồ đi đây đi đó. Người tạo nghiệp ác thì như mang một bồ rắn độc bênmình, luôn luôn nơm nớp sợ hãi, đau khổ. Theo lời Phật dạy, con người là donghiệp định đoạt tất cả. Vì vậy: "Con thiên nga chỉ bay được giữa hưkhông, người có thần thông chỉ bay được khỏi mặt đất; chỉ có bậc đại trí, đạihạnh dứt sạch nghiệp luân hồi mới bay được khỏi thế gian này" (Pháp Cú175).

Baykhỏi thế gian này tức giải thoát, tự tại. Nên con người tu hành là để chuyểnnghiệp. Chuyển nghiệp xấu thành tốt, vô minh ra giác ngộ, trầm luân ra giảithoát. Tóm lại, chuyển cái nghiệp của chúng sanh ra cái nghiệp của chư Phật,Thánh, Hiền. Khi chuyển nghiệp được rồi thì chính cái nghiệp đó nó trở thànhmột tòa lâu đài để nâng đỡ chúng sanh, giúp cho chúng sanh được an vui, giảithoát...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/08/2012(Xem: 14073)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
24/07/2012(Xem: 8944)
Trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi điểm qua nhiều chủ đề trong tiến trình thảo luận của chúng tôi, vẫn còn một vấn đề đơn độc được đan kết lại suốt tất cả những thảo luận của chúng tôi, câu hỏi của việc làm thế nào tìm thấy hạnh phúc trong thế giới phiền não của chúng ta. Vì vậy, trong việc nhìn vào những nhân tố đa dạng ngầm phá hạnh phúc nhân loại suốt chiều dài của lịch sử, những nhân tố đã tạo nên khổ đau và khốn cùng trong một mức độ rộng lớn, không nghi ngờ gì nữa, chính là bạo động ở trong những nhân tố chủ yếu.
15/06/2012(Xem: 5195)
Trong kinh điển Phật giáo , có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một sồ câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc hoặc thiếu thực tế . Đức Phật thấy rõ , những người đặt các câu hỏi như thế thì hoặc chính bản thân họ không hiểu , hoặc họ chỉ nhằm khoe khoang kiến thức qua những tưởng tượng hay ức đoán ; và nếu có trả lời thì tính hạn chế của ngôn ngữ cũng khiến mọi giải thích không thể diễn tả rốt ráo mọi điều thấy biết của Đức Phật . Vì thế mà Đức Phật chỉ im lặng .
05/06/2012(Xem: 28247)
Mới đây theo công trình nghiên cứu của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân người châu Á. Đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh Mahatma Gandhi (1869 - 1948) và một vị hiện sống là Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (1935-?). Vâng, Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay được nhiều nơi trên thế giới công nhận là một hóa thân Quan Âm và một bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại
02/06/2012(Xem: 5903)
Tôi rất vui mừng có cơ hội tiếp xúc với Phật tử Thái Lan có một số vị Tì Kheo. Các anh chị em, tôi rất vui, như tôi đã đề cập, tôi đã ở Thái Lan trong năm 1960, và tôi đã gặp gỡ với vị Tăng Vương Thái Lan. Tôi không nhớ tên, vị thứ nhất, vị thứ hai, Buddhadasa[1], rất cao, là một học giả, một tu sĩ rất tuyệt, một hành giả chuyên cần, một tu sĩ thánh thiện, nghiên cứu thâm sâu.
26/05/2012(Xem: 3614)
Giáo dục Phật giáo là lý tưởng hoàn thiện xã hội và con người. Lý tưởng này vẫn được truyền thừa qua nhiều thế hệ nhằm đem lại hài hoà, thịnh vượng và hạnh phúc cho con người, xã hội. Đức Phật chẳng những là một triết gia lỗi lạc, một đạo sư chuẩn mực mà còn là một nhà giáo dục vĩ đại. Giáo dục làm thăng tiến tâm thức và phát triển xã hội. Vai trò của Phật giáo rất quan trọng trong giáo dục, vì Phật giáo chủ trương hoàn thiện tâm thức, và xã hội. Con người có khả năng nhận thức và lý luận. Tâm con người là phương tiện cơ bản để sinh tồn, và phương tiện để đạt được tri thức. Con người không thể sống chỉ cần những nhu cầu vật chất đơn giản mà còn cần sự tiến triển tinh thần. Sự tiến triển tinh thần này gọi là tiếp thu tri thức hay giáo dục. Nếu không có khả năng giáo dục và được giáo dục nhân loại không có được những thành tựu như ngày nay. Giáo dục đem lại 4 điều lợi ích cho con người: 1) Có được tri thức cần thiết cho sự sinh tồn. 2) Phát triển khả năng của con người.
10/04/2012(Xem: 4137)
Trau dồi từ ái làm tiến bộ nguyện ước chúng sinh đánh mất hạnh phúc sẽ gặp gở hạnh phúc và nguyên nhân của nó. Bây giờ, mục tiêu là để mở rộng chu vi từ ái của chúng ta vượt khỏi phạm vi hiện tại. Chẳng hạn sự mở rộng sẽ đến một cách tự nhiên trong sự thực tập của chúng ta sau khi đã phát triển một cảm nhận tình cảm với người khác, những người muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau.
26/03/2012(Xem: 5098)
Để phát sinh lòng từ ái chân thật, chúng ta cần biết nó khác biệt với luyến ái như thế nào. Lòng yêu thương và trắc ẩn thông thường quyện kết với luyến ái, bởi vì động cơ của chúng là vị kỷ: chúng ta quan tâm đến những người nào đấy bởi vì họ tạm thời giúp đở chúng ta và người thân của chúng ta.
19/03/2012(Xem: 6521)
Nỗi khổ đau suốt trăm năm trong cõi người ta vẫn hoài đè nặng lên kiếp người như một người mang đôi gánh nặng trĩu trên vai và đi mãi trên con đường dài vô tận, không khi nào đặt xuống được. Nhưng ngàn xưa vẫn chưa có bậc xuất thế nào tìm ra con đường thoát khỏi khổ đau của sanh, lão, bệnh, tử nên trong tiền kiếp Đức Phật cũng đã từng xông pha lăn lộn trong cuộc đời đầy cát bụi và đã trải qua biết bao khổ đau, thương tâm cũng như nghịch cảnh để tìm ra người thợ xây ngôi nhà ngũ uẩn và dựng lên những tấm bi kịch thường diễn ra trên sân khấu cuộc đời.
04/03/2012(Xem: 46097)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (tập 4), mục lục: Sắc đẹp hoa sen Chuyện hai mẹ con cùng lấy một chồng Cảm hóa cô dâu hư Bậc Chiến Thắng Bất Diệt - Bạn của ta, giờ ở đâu? Đặc tính của biển lớn Người đàn tín hộ trì tối thượng Một doanh gia thành đạt Đức hạnh nhẫn nhục của tỳ-khưu Punna (Phú-lâu-na) Một nghệ sĩ kỳ lạ Vị Thánh trong bụng cá Những câu hỏi vớ vẩn Rahula ngủ trong phòng vệ sinh Voi, lừa và đa đa Tấm gương học tập của Rahula Bài học của nai tơ Cô thị nữ lưng gù
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567