Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

PHẦN IV: KẾT LUẬN

03/05/201319:00(Xem: 587)
PHẦN IV: KẾT LUẬN


Vài nét về Tâm lý học phổ thông

và Tâm lý học Phật giáo

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

NS Thích Nữ Hương Nhũ

---o0o---

PHẦN BỐN

KẾT LUẬN

ĐẠO PHẬT VỚI LỐI SỐNG HƯỚNG NỘI TÂM VÀ BIỆN TÂM

Qua phần trình bày của luận văn tốt nghiệp chúng ta có thể nhận thấy: Tâm lý học phổ thông là một trong những khoa học quan trọng về con người. Theo quan điểm của triết học Mac Lê Nin thì tâm lý học phổ thông sẽ giải quyết các vấn đề về con người và xã hội theo cuộc sống trên thế gian. Mọi giá trị tinh thần được đề cập đến ở phạm vi tương đối của một kiếp người. Đối với Đức Phật, vấn đề tôn giáo và nguồn cội của tôn giáo không phải là siêu hình, nhưng chính là vấn đề tâm lý, trí thức và trí tuệ. Phật giáo quan niệm hoạt động tâm thức chỉ là một dòng trôi chảy của các duyên. Cuộc sống là một tiến trình miên man không ngừng trôi và cứ như thế kiếp này sang kiếp khác. Chính vì lẽ đó tâm lý học Phật giáo chỉ nhằm nói về bản chất của tâm, phương pháp thanh lọc tâm. Cách duy nhất để giải quyết những hoài nghi và những vấn đề khúc mắc trong tâm thức là phương pháp tự quán chiếu. Do vậy, Đức Phật không sẵn sàng giải đáp những thắc mắc như: Thế gian có trường tồn vĩnh cửu hay không? Thế gian có vô cùng vô tận hay không? Nguồn gốc của thế gian là gì ?...Đối với những câu hỏi và những thắc mắc xem hình như quan trọng nhưng không bổ ích ấy. Im lặng là giải đáp tốt đẹp nhất. Cách duy nhất để giải quyết những hoài nghi và những vấn đề khó khăn là nhìn sâu trở về nội tâm. Đức Phật hướng dẫn ta vào đường lối phân biệt và khảo sát tâm lý cũng nhằm giúp ta phát triển năng lực và phẩm chất nội tâm. Đức Phật dạy: 

Chính tự các con phải kiên trì tinh tấn và thành tựu giải thoát cho chính mình. Chư Phật chỉ rọi sáng con đường” [1]

Do đó, con người cần phải khảo sát tỉ mỉ cái tâm của chính mình. Để thông hiểu các tâm ý, tư tưởng hoạt động ra sao? Chúng phát sanh và hoại diệt thế nào? Với mục đích chế ngự tâm, điều phục tâm, vì tâm vốn dong ruổi theo các dục vọng trên đời; bằng cách chuyên tâm vào phát triển Tứ Chánh Cần:

-Ngăn ngừa những tư tưởng xấu, các bất thiện pháp chưa phát sanh.

-Khắc phục, dứt bỏ các tư tưởng xấu đã phát sanh

-Làm phát khởi những tư tưởng tốt, thiện pháp chưa phát sanh

-Bảo trì và gìn giữ những tư tưởng tốt đã phát sanh.

Đó chính là chức năng của Chánh Tinh tấn nhằm dẫn đến nội tâm vắng lặng và trong sạch qua pháp hành thiền. Thiện hay ác là thiện ác từ trong tâm, trong ý nghĩ ngay khi tâm ấy, ý nghĩ ấy chưa bộc lộ qua lời nói vàha2nh động nơi thân. Từ trong tâm khởi lên ý nghĩ ác mà không được sự ngăn chặn kịp thời, thì sớm muộn lời nói ác và hành động ác cũng nối tiếp theo sau, dẫn tới quả khổ không thể tránh khỏi.

Hàng ngày chúng ta phải tu tập tâm, quán sát tâm, phòng hộ tâm, bất cứ một ý nghĩ bất thiện nào khởi lên đều phải được lập tức đoạn trừ. Nhờ vậy, dần dần tâm ta sẽ trở nên thuần thiện và trong sáng. Tâm thiện thì sống hạnh phúc an lạc. Tâm sán thì thấy được vạn pháp như thật- thấy được Đạo, thấy được chân lý. Những gì làm cho tâm ta mời tối? Đó là ý nghĩ và hành động bất thiện, những dục vọng thấp hèn. Nếu thường xuyên tu tập tâm xa lìa các ác, bất thiện pháp, xa lìa tham dục thì tâm sẽ sáng chói như “trăng thoát mây che”. Muốn đoạn trù và xa lìa các dục chúng ta phải biết các dục bắt nguồn từ tham sân si tác động vào thân tâm của ta như thế nào. Đức Phật đã dạy “vị ngọt” của các dục là niềm vui do sự thoả mãn dục vọng tạm thời:

Này các Tỷ kheo, thế nào là vị ngọt của các dục? Các sắc pháp do nhãn căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý....hấp dẫn, các tiếng do nhĩ căn nhận thức, các hương do tỷ căn nhận thức, các xúc do thân căn nhận thức, khả ái, khả lạc, khả ý....hấp dẫn”[2]

Nhưng dục vọng vô cùng tạm bợ và nguy hiểm, dẫu có đạt được cũng như người uống nước muối, càng uống càng thêm khát. Do vậy Đức Phật khuyên chúng ta xuất ly các dục, thay thế “vị ngọt” tạm bợ và thấp hèn của dục bằng niềm vui giải thoát của lòng từ và thiền định, đảm bảo cho chúng ta một trạng thái tâm hồn an nhiên tự tại. Mục đích của Thiền tập là nhằm đạt tới một sự bình tĩnh nội tâm thường xuyên và ngày càng đi sâu vào tâm thức nhằm để thấy rõ bản thân mình và làm chủ bản thân mình.

Đức Phật dạy trong kinh Tạp A Hàm: Đã từ lâu, tâm của con người bị tham sân si làm ô nhiễm. Bợn nhơ tinh thần làm cho tâm của chúng sanh ô nhiễm. Cần gội rửa tâm làm cho tâm trong sạch.

Lối sống của người Phật tử là một tiến trình tích cực nhằm thanh lọc thân, khẩu, ý. Đó là lối tự thanh lọc, tự trau dồi, tự phát triển nhằm tự mình chứng ngộ. Điểm chính yếu là thành quả thâu đạt được chứ không phải là lối tranh luận triết học hay trừu tượng hợp lý. Pháp hành Thiền trong Phật giáo không nhằm hội nhập với một Đấng tối thượng cũng không nhằm chứng đạt những chứng nghiệm huyền bí mà nhằm thành tựu trạng thái tâm vắng lặng và tuệ minh sát, tiến tới mục tiêu duy nhất là tâm giải thoát ra khỏi mọi trói buộc. Lối sống của Đạo Phật là lối sống tôn giáo hướng nội và biện tâm. Hướng nội là để quân bình tâm, quân bình hướng ngoại, chứ không phải từ bỏ hướng ngoại. Lý do là vì nội tâm của con người chứa đầy những bí ẩn mà con người không hiểu, không biết tới mức phủ nhận tâm cho rằng chỉ có vật chất. Bộ não tiết ra tư tưởng như gan tiết ra mật (le cerveau sécrète là pensée comme le foie sécrete là bile), tuy rằng chưa có nhà khoa học nào phát hiện ra cơ chế bộ óc tiết ra tư tưởng như thế nào. Do đó mà trong một thời gian dài, môn tâm lý học đã bị coi nhẹ ở phương Tây- Một môn khoa học mà theo sự đánh giá chung của người phương Tây vẫn đang ở thời kỳ phôi thai, ấu trĩ. Như lời phê phán của một nhà báo Mỹ (được trich dẫn trong một bài báo):

Về môn vật lý học, người Mỹ đang ở thời đại nguyên tử, nhưng về môn tâm lý học, người Mỹ đang ở thời đại đồ đá”

Nếu chúng ta không biết tự mình chế ngự tâm, cân bằng hai xu thế hướng nội và hướng ngoại thì hậu quả là ta không làm chủ được bản thân mình sẽ bị ngoại cảnh chi phối. Sự vật khó mà nhận thức như là nó thật sự đang là, mà sai lầm qua hoả mù của nội tâm dao động mạnh. Thậm chí phản ứng tâm lý có thể dẫn đến những hành động điên đảo, xuất phát từ những xung động bản năng mãnh liệt và đáng sợ. Vấn đề này thường xảy ra ở các nền văn hoá hữu ngã.

Lối sống tôn giáo hướng nôi nếu được thực hành thường xuyên và có ý thức sẽ giúp chúng ta luôn luôn tỉnh táo, điều hoà được thân tâm, điều hoà tốt đẹp mối quan hệ giữa con người và xã hội. Phương pháp hành thiền của Phật giáo cũng nhằm mục đích đó.

Từ ngữ “biện tâm” ở đây nhấn mạnh lối sống của người Phật Tử không chỉ là hướng nội mà còn phải biện tâm, nghĩa là tìm hiểu tâm, cải tạo tâm, điều hoà tâm, biết dụng tâm một cách tốt đẹp. Từ ngữ “biện tâm” được vua Trần Thái Tông, một nhà nghiên cứu Phật học lỗi lạc thể hiện trong tác phẩm “Khoá Hư Lục” với nội dung như sau:

Mặc vấn đại ẩn, tiểu ẩn, bất câu tăng tục, hưu biệt tại gia, xuất gia, chủ yếu biện tâm, bổn vô nam nữ, hà tư trước tướng? Nghĩa là”:”Không kể là sống ẩn dật trên núi hay là sống giũa thị thành, không kể là tăng hay tục, không phân biệt tại gia hay xuất gia, chỉ cốt biện tâm, vốn đã không có phân biệt nam nữ, sao lại còn chấp tướng?”

Đạo Phật thật sự là đạo bình đẳng để tất cả mọi người có thể nương theo tu học. Cốt yếu của sự tu hành là hướng nội, biện tâm, tìm hiểu tâm, cải tạo tâm, sử dụng tâm luôn ở trạng thái chú tâm tỉnh giác. Con người phải hiểu sự thật của chính mình và biết điều phục tâm mình để đạt an lạc hạnh phúc ngay trong hiện tại.

“Người tâm không ái dục,

Không bị sân nhuế hành

Vượt trên mọi thiện ác

Tỉnh giác được an vui” [3]

Là người trí phải biết điều hoà tâm, làm chủ tâm mình. Phải biết rõ sự sinh khởi, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của từng trạng thái tâm thức khởi lên dù rất vi tế. Đức Phật không thể nào được cầu thấy qua sắc tướng, hình ảnh hay được ban phúc giáng hoạ như bất kỳ một đấng Thần linh nào. Chỉ có sự nỗ lực tu tập, với thiền định, với nội tâm trong sạch, vắng lặng, thoát khỏi mọi nhơ bẩn của tham sân si thì đó chính là thấy được Đức Phật. Chính vì vậy mà khi Vua Trần Thái Tông lánh len núi Yên Tử để cầu Phật thì quốc sư Viên Chứng đã nói với Vua:

Trong núi không có Phật. Phật chỉ có trong tâm. Lòng lắng mà biết thì đó là Phật, Nay nếu vua ngộ cái tâm ấy thì lập tức thành Phật, không phải khổ cầu bên ngoài”[4]

(“Sơn bản vô Phật, duy tồn hồ tâm, tâm tịch nhi trị, thị danh chân Phật. Kim bệ ngộ thử tâm, tắc lập địa thành Phật, vô khổ ngoại cầu dã”)

Xã hội chúng ta đang sống là một xã hội mà khắp nơi làn sống của vật chất thế tục đang ngự trị. Nhưng thật sự cũng có những làn sóng ngầm cũng rất mạnh mẽ đang chảy ngược lại, đó là những làn sóng của truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và đạo đức dân tộc, là làn sóng của những chân giá trị tâm linh siêu việt đạt được từ cuộc sống thiền tập, biện tâm, vị tha và vô ngã.

Trên đây là những gì của nội dung mà người viết muốn nói đến qua những đề tài luận văn: “Vài nét về tâm lý học phổ thông và tâm lý học Phật giáo”. Vấn đề sẽ được sáng tỏ hơn nhiều nếu được khảo sát qua các công trình biên khảo khác. Phải chăng tâm lý học Phật giáo cần được đưa vào trong nội dung ngành tâm lý học của học đường ngày nay?

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

  1. Trung bộ kinh tập I. HT Minh Châu dịch. Viên Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam 1992

  2. Tập A Hàm tập I Thiện Siêu, HT Thanh Từ. Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam 1993

  3. Thi kệ Pháp Cú Kinh. Narada. Tịnh Minh dịch 1995

  4. Thích Nhất Hạnh. Vấn đề nhận thức trong duy thức học. Lá Bối 1989

  5. Thích Chơn Thiện. Phật học Khái Luận . Ban Giáo Dục Tăng Ni 1993

  6. Thích Phước Sơn. Phương pháp khoa học của duy thức. Trường CCPHVN 1995

  7. Thích Nhất Hạnh. Giảng Luận duy biểu học. Lá Bối. 1996

  8. Thích Chơn Thiện. Lý thuyết nhân tính qua Kinh Tạng Pàli. Luận án Tiến Sĩ Phật học 1996

  9. Lê Nin. Chủ nghĩa Duy Vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phe pháp. Sự thật 1963

  10. Lê Nin toàn tập. Tập 14, Nhân Dân 1957

  11. Lên Nin toàn tập tập 18. Nhân dân 1957

  12. Tâm lý học (sách giáo khoa dùng trong các trường CĐSP) Phạm Minh Hạc, Phạm Tất Dong, Phạm Hoàng Gia, Đặng Xuân Hoài, Nguyễn Đức Minh, Trần Trọng Thuỷ 1992)

  13. Tâm lý học đại cương. ĐHSP Hà Nội 1975

  14. Tâm lý học. Thái Trí Dũng, Trân Văn Thiện, Vũ Thị Phượng. ĐHKT TP Hồ Chí Minh 1995

  15. Khoa học và nghệ thuật giao tiếp. PGS. Tiến sĩ Trần Tuấn Lộ, Tổng hợp Đồng Tháp 1995

  16. Giáo trình tâm lý học. Trần Trọng Thuỷ ĐHSP 1978

  17. Tâm lý học tập II. Bùi Ngoc Oánh, Nguyễn Hữu Nghĩa, Triệu Xuân Quýnh. Trưởng ĐHSP Tp HCM 1995

  18. Bài giảng môn học Thắng pháp tập yếu luận. TT Thích Chơn Thiện

  19. Các bài giảng về bộ môn tâm lý học của GS Trần Tuấn Lộ

  20. Các bài giảng về bộ môn Tôn Giáo học. GS Minh Chi

  21. James Driver, A Dictionary of psychology, London. Penguin Books 1952

  22. Dagobert Runes. Dictionary of Phylosophy. New Jersey little field. Adams & Co USA 1963

  23. How to live without fear and worry in the present life. K.Sri Dhammanada 1995

  24. Tr. V. Murti. The central Phylosophy of Buddhism. Thích Đức Minh dịch. Phật học Viện Hải Đức.



[1]Kinh Pháp Cú câu 276

[2]Đại Kinh Khổ Uẩn. Trung Bộ kinh I Tr. 143

[3]Pháp Cú. Câu 39

[4]Bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam

---o0o---


Trình bày: Nhị Tường

Vi tính: Đồng Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/02/2013(Xem: 6422)
Một câu hỏi lớn nằm dưới kinh nghiệm của chúng ta, dù chúng ta nghĩ về nó một cách ý thức hay không: mục đích của cuộc sống là gì? Tôi đã cân nhắc câu hỏi này và muốn chia sẻ những suy nghĩ của mình với hy vọng rằng chúng có thể có lợi ích trực tiếp và thực tế đối với những ai suy nghĩ về chúng.
02/01/2013(Xem: 1110)
Giáo dục Phật giáo không dính dáng gì đến đức tin, cầu nguyện hay nghi lễ mang ý nghĩa tôn giáo. Nó cũng không phải là một hệ thống triết thuyết mang tính giáo điều, răn đe, mà là một con đường dẫn đến nếp sống an lạc, hạnh phúc, hoàn toàn giải thoát nhờ vào sự hoàn thiện đạo đức, tri thức và tâm linh.
16/11/2012(Xem: 5210)
Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống cung kính tùy thuận bậc Ðạo Sư; sống cung kính tùy thuận pháp; sống cung kính tùy thuận chúng Tăng; sống cung kính tùy thuận học pháp; sống cung kính tùy thuận không phóng dật; sống cung kính tùy thuận tiếp đón. Ðây là nhân, đây là duyên, sau khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu dài
01/11/2012(Xem: 7509)
Nhằm để thực hành Đạo Phật, chúng ta trước nhất phải biết về tâm. Ngay cả nếu ta là một người không tín ngưỡng, ta có thể thử để cải thiện hay rèn luyện tâm, được cung cấp ta có kiến thức về nó. Bất cứ một con người bình thường nào, cho vấn đề ấy, có thể thực tập rèn luyện tâm và điều này cuối cùng sẽ chứng tỏ là rất hữu dụng.
03/10/2012(Xem: 5906)
Kết quả của bất cứ hành động nào đều tùy thuộc vào động cơ của đương sự. Cùng một hành động có thể đưa đến kết quả khác nhau, tùy theo đương sự có phiền não hay cảm xúc tích cực trong tâm. Thậm chí khi có cùng một cảm xúc chung chung, thí dụ như lòng bi mẫn thúc đẩy một hành động, các yếu tố tình cảm và tinh thần hỗ trợ cảm xúc ấy cũng tác động lên kết quả.
20/09/2012(Xem: 6254)
Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu. Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ. Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những khái niệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn
25/08/2012(Xem: 3684)
Nhiều khổ đau của con người xuất phát từ những cảm xúc phiền não, như thù hận sinh khởi bạo động và hay tham dục tạo ra mê đắm. Một trong những trách nhiệm căn bản nhất của chúng ta khi quan tâm đến con người là để làm vơi bớt những cái giá phải trả của loài người về những cảm xúc vượt ngoài vòng kiểm soát. Tôi cảm thấy rằng cả Phật học và khoa học đều có nhiều đóng góp.
25/08/2012(Xem: 9207)
Đây là bài nói chuyện của Tỳ Kheo Bodhi trong chương trình Google Techtalks vào ngày 3 /11/2010. Trong phần mở đầu, Tỳ Kheo Bodhi nói rằng Ngài biết anh bạn Quản lý chương trình Techtalks là người thích hài hước, nên Ngài phải chọn một nhan đề mang tính hài hước cho bài nói chuyện này là:“ Cần Có Hai Người Để Nhảy Điệu Tango ”,( vì Ngài e ngại bài nói chuyện của Ngài sẽ tẻ nhạt đối với thính giả). Nhưng nếu nói một cách nghiêm túc, thì đề tài của buổi nói chuyện này sẽ là: “Tương Lai Nhân Loại và Tương Lai Phật Giáo ”.
02/08/2012(Xem: 16828)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
24/07/2012(Xem: 11883)
Trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma và tôi điểm qua nhiều chủ đề trong tiến trình thảo luận của chúng tôi, vẫn còn một vấn đề đơn độc được đan kết lại suốt tất cả những thảo luận của chúng tôi, câu hỏi của việc làm thế nào tìm thấy hạnh phúc trong thế giới phiền não của chúng ta. Vì vậy, trong việc nhìn vào những nhân tố đa dạng ngầm phá hạnh phúc nhân loại suốt chiều dài của lịch sử, những nhân tố đã tạo nên khổ đau và khốn cùng trong một mức độ rộng lớn, không nghi ngờ gì nữa, chính là bạo động ở trong những nhân tố chủ yếu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]