Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền quy

01/04/201314:04(Xem: 6427)
Thiền quy

Phat_thanh_dao

Thiền Quy (Thiền Viện Mahasi)

Đại Đức Thiền Sư Bhaddanta U Arseikkhana thuyết giảng
Tỳ kheo Chánh Kiến dịch

---o0o---

“ Đức Phật dạy chư tỳ kheo có bổn phận suy xét hằng ngày 4 điều: Ân đức Phật, rãi tâm từ, niệm sự chết và quán bất tịnh!”

Hành giả cần phải:

1. Hành 14 giờ chính thức mỗi ngày bằng thiền, trong tư thế ngồi và đi.

2. Độc cư, giữ yên tịnh. Mọi giao tiếp không được khuyến khích tại đây.

3. Kềm chế việc hở môi nói chuyện.

4. Hạn chế tối thiểu việc đọc và viết.

5. Cư sĩ phải giữ Bát Quan Trai giới. Cấm hút thuốc. Nhà sư và tu nữ phải trì giữ cẩn mật giói luật hàng xuất gia.

6. Cẩn trọng theo sát hướng dẫn của Thiền Sư và không hành theo bất cứ lối thiền nào khác tại đây.

7. Không được có bất cứ hành vi nào không liên quan đến việc hành thiền liên tục (như nghe radio, cassette, xoa bóp, chụp hình, giữ sách vở - dù là kinh, châm cứu, tiếp khách, nấu ăn, học tiếng Miến Điện, Anh văn hay Pàli ...)

8. Thu thúc các Căn. Sống như Mù, Điếc, Câm, Ngu, Bệnh, và như người chết rồi.

9. Cử động thật chậm.

10. Hạn chế ngủ từ 4-6 giờ trên 24 giờ mổi ngày.

11. Hành giả phải hành thiền bằng:

- Lòng tôn kính và thật tâm

- Sáng suốt, trung thực và chân chính.

- Tinh cần và dũng mãnh.

- Thông suốt mọi việc.

- Kiên định.

- Trì chí, liên tục từng giây phút niệm, từ khi kinh hành sáng đến lúc an nghỉ buổi tối.

12. Không thể gián đoạn niệm để suy nghĩ, liên tưởng, suy tính, phân tích hay giải thích trong khi hành niệm liên tục.

13. Thông thường, việc hành thiền dành cho người bình thường và tâm trí quân bình. Nếu người mà tâm trí không sắc bén để hành thiền liên tục, nhất là để theo sát giáo huấn, thì không thể gọi là hành giả. -- (Lời dạy của các Thiền Sư ).

* Tóm Lược Hướng Dẫn Cách Trình Pháp

1.Mỗi hiện pháp gặp phải trong một lần ngồi thiền cần được mô tả trong những thuật ngữ sau:

a. Sự phát sanh

b. Sự ghi nhận

c. Sự quan sát

Trình bày những hiện pháp (Đề Mục) gặp phải theo một cách trình tự từ hiện pháp đầu tiên, như chuyển động lên - xuống, phồng - xọp của bụng.

Chẳng hạn:

- Sự phồng lên của bụng đã phát sanh tôi ghi nhận là Phồng rồi quan sát sự giãn nở, sự nén hơi, sự căng cứng ".

- "Sự xọp xuống của bụng đã phát sanh, tôi ghi nhận là Xọp rồi quan sát sự xẹp xuống, sự thư giãn tinh thần"

2.Trình bày sự biết rõ các hiện pháp đồng phát sanh ra sao và ta quan sát chúng liên tục như thế nào?

Chẳng hạn: "Sự biết rõ chỉ đến sau khi sự Phồng đã sanh diệt và tôi chỉ có thể quan sát một hay hai những sự phồng và những sự xọp, trước khi tâm ý trôi mất" hay "sự biết hiện pháp phát sanh ngay ở sát na phồng và sự kéo dài của nó, và tôi có thể quan sát phồng - xọp từ 20 đến 30 lần trước khi tâm ý phóng đi".

Điều quan trọng nhất là trình hiện pháp đầu tiên trong sự rõ ràng, đơn giản, ngôn từ chuẩn xác trong mọi chi tiết chính xác mà ta đã quan sát. Chỉ sau khi đó bạn mới có thể trình bày những hiện pháp kế tiếp đã được ghi nhận và biết rõ trong lúc ngồi.

3.Trình bày những hiện pháp kế tiếp đã được ghi nhận và quan sát rõ rệt khi ngồi thiền .

Chẳng hạn: Những tâm cảm thọ từ thân thể: đau nhức, ngứa ngáy,.... suy nghĩ và ý tưởng, phóng dật, hoạch định, nhớ tưởng, .... những trạng thái tâm: sân hận nóng nảy, ngã mạn tự cao, an lạc, vừa ý, v v...

Xin thuật lại những chi tiết, ý liệu sau trong mỗi hiện pháp được trình bày:

a) Sự phát sanh của một hiện pháp. Ví dụ: "Đau nhức đã phát sanh ở đầu gối,...."

b) Những gì ta đã làm, ta ghi nhận chúng ra sao. Ví dụ: tôi ghi nhận rằng "đau đau"

c) Những gì ta đã quán sát. Ví dụ: tôi quan sát sự đau nhói.

d) Những gì sẩy ra cho hiện pháp Ví dụ: đau nhói đổi thành đau nhức.

e) Những gì ta đã làm kế đó. Ví dụ: tôi ghi nhận chúng khi "nhức, nhức".

f) Những gì ta quan sát. Ví dụ: tôi quan sát nhịp đau nhức dập chậm (nhói lên từng nhịp).

g) Những gì xảy ra . Ví dụ: khi tôi ghi nhận chúng, chúng đã diệt đi.

h) Những gì ta đã làm kế đó. Ví dụ: tôi trở về sự ghi nhận Phồng và Xọp.

i) Tâm phóng dật khởi hiện pháp (Đề Mục). Ví dụ: đầu tiên tôi không ghi nhận chúng. Nhưng khi tôi đã hành, tôi ghi nhận chúng là: phóng dật" và phóng dật đã chấm dứt. Ngay sau đó, tôi trở về sự quan sát Phồng - Xọp.

4.Ta phải trình bày diễn tiến toàn diện của ta trong mỗi hiện pháp (đề mục) kế tiếp.

- Sau khi trình bày về thiền toạ (ngồi), ta có thể trình bày tiếp về thiền hành (đi kinh hành)

- Lại nữa, mô tả trước tiên về những hiện pháp ban đầu: Dở, Bước, Đạp của mỗi chân.

Chẳng hạn: "Khi kinh hành, tôi dở chân, ghi nhận sự dở chân và quan sát X,Y,Z.... Chuyển chân tới trước, tôi ghi nhận bước chân và quan sát A,B,C... Khi đặt chân xuống, tôi ghi nhận sự đặt chân và quan sát L,M,N... Tôi có thể ghi nhận, theo dõi liên tục từ 10 đến 15 bước trước khi tâm ý trôi mất (phóng dật), hay tôi đã bị tác động bởi các cảnh vật và các âm thanh (sắc và thinh).

Những hiện pháp kế tiếp có thể liền được trình bày trong diễn tiến toàn diện của chúng.

a) Khi tâm ý phóng dật, tôi đã nhận biết chúng ngay tức thời.
b) Tôi đã ghi nhận "phóng dật", chúng nhòa đi một cách chậm dần và biến mất, rồi tôi trở lại quan sát, theo dõi sự dở, bước, đạp.

Hình thức này dành cho việc trình pháp (trình bày những kinh nghiệm hành thiền) đã minh chứng là hữu ích vô cùng cho nhiều hành giả. Nó chỉ đường cho tâm an trụ trong đường hướng hành thiền, thông qua việc khai mở toàn bộ những tiến trình nào có thể xảy ra trong thân - tâm chúng ta.

Bất cứ cái gì bạn kinh nghiệm được trong việc hành thiền, có thể được đúc kết trong việc trình pháp của bạn, cho dù đó là trạng thái an trú hỷ lạc của tâm, những giai đoạn tình cảm hay tâm tư gặp khó khăn hay chướng ngại pháp mạnh mẽ. Lợi ích lớn nhất của cách thức trình pháp hành thiền đặc biệt này là, giúp bạn tập trung niệm một cách trực tiếp trên sự tu chứng, còn hơn là đánh mất mình trong tư duy miên man và tản mác về những gì xảy ra.

Sự liên hệ nan giải này trong việc trình pháp cùng sự nhận thức mạnh mẽ, sâu sắc hơn, làm minh bạch và thấu đáo về thiền định.

---o0o---

Cập nhật: 01-07-2005

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 497)
Từ xưa đến nay, khi nhận thức của nhân loại phát triển thì những vấn đề lớn của con người được đặt ra. Sống trong kiếp người với bao ưu phiền, khổ lụy, người ta luôn khao khát tìm ra một lẽ sống thích hợp để được an vui, hạnh phúc hơn. Rất nhiều nhà tư tưởng, trí thức của xã hội đã đưa ra những học thuyết, lý luận, cách sống tiến bộ, khoa học nhằm giúp ích cho con người.
08/04/2013(Xem: 487)
Thật là diễm phúc thay! Hạnh phúc thay! Một niềm sung sướng mà nhân loại cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ đã được đón nhận một bậc vĩ nhân giáng sanh vì đại nguyện: “Ta ra đời vì hạnh phúc và an lạc cho chư thiên và loài người”.
08/04/2013(Xem: 3310)
Có biết bao là sự biến cố giữa cuộc đời và cũng có biết bao sự khổ đau giữa cuộc sống trầm luân sanh tử, vì do những cái giả tạm không thực mà tạo nên. Nếu giáo dục được hiểu là suối nguồn văn hĩa và văn minh của nhân loại, thì đâu sẽ là một nền giáo dục đích thực để có thể đưa đến chấm dứt khổ đau trầm luân cho lồi người ?.
08/04/2013(Xem: 574)
Giới luật là điều cần thiết nhất cho người xuất gia vì “Giới luật là thọ mạng của Phật pháp. Giới luật còn thì Phật pháp còn”, giới luật là những điều ngăn cấm từ kim khẩu của Phật thuyết chế ra thành giới pháp, giới tướng để các chúng đệ tử Phật thực hành giới hạnh, nghiêm trì giới đức nhằm ngăn ngừa tất cả tội lỗi và giữ nhân phẩm gìn thân khẩu ý được thanh tịnh. Nhờ giữ giới mà được định tâm, nhờ định tâm mà phát sinh trí tuệ giác ngộ.
08/04/2013(Xem: 669)
Khi Đức Phật còn tại thế, hàng đệ tử nương đạo phong của Ngài tu tập mà chứng ngộ. Bởi trí tuệ siêu việt của ngài đã cảm hóa nhân sinh rất có hiệu quả. Do vậy chúng ta càng tự hào biết chừng nào khi nhân loại hòa nhập vào giáo lý thậm thâm vi diệu. Do vậy, Đạo Phật rất cần sự có mặt của Tu sĩ vừa có Giới hạnh, vừa có trình độ Phật học lẫn thế học thật vững vàng mới cùng nhau xây dựng ngôi nhà
08/04/2013(Xem: 542)
Mục đích tối thượng của người phát tâm xuất gia là đạt thành Phật qủa. Song, muốn thành tựu qủa Vô Thượng Giác, dù đi trên bất cứ lộ trình nào nhưng giai đoạn cuối tất yếu hành giả phải trải qua quá trình hành Bồ Tát đạo theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Kinh pháp hoa là một Đại Sự của Chư Phật, là yếu môn của Bồ Tát, là Chân Như Bình Đẳng của Như Lai.
08/04/2013(Xem: 663)
Ấn độ là một nước có nền văn hoá truyền thống lâu đời thuộc bậc nhất thế giới, với những trường phái triết học lỗi lạc. Nhưng không sao thoả mãn cái nhu cầu giải thoát con người ra khỏi xiềng xích nô lệ bởi xã hội thống trị phân chia giai cấp và không thể giải thoát khỏi sự ràng buộc bởi vật chất hay cố chấp của tinh thần.
08/04/2013(Xem: 476)
Hoằng pháp là nhiệm vụ quan trọng của người tu sĩ Phật giáo. Chư Phật cũng như chư Bồ tát đều có những hạnh nguyện cao cả như thế. Ngày xưa Tổ Bồ Đề Đạt Ma vượt ngàn dặm xa xôi từ Ấn Độ sang Trung Quốc truyền giáo. Trong lịch sử đã có biết bao vị Tổ đã không quản gian lao khó nhọc để đến với những đất nước xa xôi như Tây Tạng cao ngất hay nước Nga giá rét…
08/04/2013(Xem: 568)
Từ Bi, khi nghe nói về hai tiếng Từ Bi, ôi! Sao mà ngọt ngào, sao mà dịu mát. Hai tiếng “Từ Bi” lần đầu tiên đi vào trong tâm khảm con thuở vừa mới lên mười.
08/04/2013(Xem: 577)
Cuộc sống vẫn đang tiếp diễn, nhưng trong đó có bao vấn đề gay go, rắc rối, hiểm nguy đang âm ỉ hoặc đã bộc phát ra (đói rét, bịnh tật, âu lo, nghi nan, tị hiềm, chia rẽ, hận thù, khủng bố, chiến tranh…). Con người vẫn đang sống với nhau nhưng trong đó luôn hục hặc, xung đột và chưa bao giờ là thực lòng với nhau, cho đến muốn trấn áp, thủ tiêu lẫn nhau.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567