Hiền Như Bụt
MỞ SÁCH
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả.
Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao.
Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá,
Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên.
Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát.
Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác.
Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
Mỗi trang chỉ là một chiếc lá, từ vạn năm, mỗi mùa lại lả tả rơi xuống sân chùa.
Kẻ sĩ theo Tagathata
Nguyện lấy chổi đào
quét lá sân si
quét mây mù chướng ngại
thổi tiêu dẫn bướm về đậu dưới gót Như Lai.
Om mani Om mani
BỐ CỤC
Tổng quát :
Hiền Như Bụt- Mẫu Người Hiền-Đạo Bụt Sáng Nghĩa 21 đề tài-
Phật pháp Trị liệu pháp
Trị liệu pháp-Thiền Định Thiền quán-Tâm Bệnh-Khẩu nghiệp-Tịnh Khẩu pháp môn. Tri Thiên mệnh-Vô Cư An Cư.
Đạo Bụt và Khoa học Vật Lý
Vạn pháp Dung thông trường-Vật lý Lượng tử
Bóng Phật trong Văn học
Liêu Trai-Cổ thi Trung Đông/Ba Tư- Thơ Thiền Nhật Bản
Kiều-Phạm Thái-Cung Oán-Dép Đạt Ma- Đi Chùa Hương…
Tư tưởng Tam giáo
Cốt tủy Luân lý Bình dân-Ca dao Tục ngữ-
Vạn Hạnh-Trạng Trình-Lý Đông A-
Đạo Bụt canh tân
Bài học vua Phật Mongkut Thái Lan- Phật giáo Canh Tân
Chuỗi Ngọc Kinh Phật
Pháp Cú-Viên Giác-Kim Cương-Trường A Hàm-Pháp Hoa
Hoa nghiêm- Sách về đời Bụt : Sherab Chodzin Koln.
HIỀN NHƯ BỤT
Từ điển chuyên khoa Triết học Larousse tìm nghĩa gốc của tên hiệu Thích Ca Mâu Ni là “cây sậy đơn độc”(1), nhiều học giả khác cũng đi tới kết luận tương tự, Thích Ca Mâu Ni hiểu theo nghĩa sâu xa là nhà hiền triết tịnh mặc.
Từ giai đoạn sống đời sống nhân sinh mang tên Thái tử Mãn Nguyện- Siddhartha tới lúc sinh con trai tên Ràng buộc- Rahula, rồi dứt bỏ lên đường tìm đạo tu hành, ngồi tĩnh tọa im lặng dưới rặng Hy Mã Lạp Sơn nóc nhà của thế giới, người đương thời và đệ tử gọi Ngài là nhà hiền triết trầm mặc, Cakya Mouni, ít nói, không tranh biện, cho tới lúc đạt đạo giác ngộ dưới gốc Bồ Đề thành người Thức Tỉnh -Buddha. Từ đây cây sậy im lặng và thức tỉnh ấy đã làm thức tỉnh cả tỷ tỷ chúng sinh.
Buddha người Việt Giao Chỉ gọi nôm na là ông Bụt, mãi sau theo Tàu, thời Minh thuộc 1407-1428, mới gọi là Phật vì Tàu phiên âm Buddha là Phật Đà (2). Khi gặp hoạn nạn đau khổ thì người ta cầu ông Bụt hiện lên để cứu độ. Đạo Phật, từ những thế kỷ đầu Dương lịch, đã trở thành một triết lý và một tôn giáo dân tộc, ngay cả tên vị giáo chủ cũng đã được biến thành một tên bình dân, ông Bụt bên cạnh ông Tiên, đi vào đời sống tâm linh người dân như những thiên thần che chở cứu giải. Trời, Phật đi với nhau : nói có Trời có Phật, và ông Trời hay Tạo Hóa, hay Thượng Đế, thì cao xa quá, còn ông Bụt gần hơn, thân mật và hiền từ hơn, hiền như Bụt, như người dân ví dụ, chứng tỏ đạo lý từ bi đã thấm nhuần vào con người Việt-Nam rất tự nhiên và sâu xa. Đã bao người, như Lão Tử, trách móc Trời gần Trời xa, nào “thánh nhân đãi vạn như sô cẩu”, nào “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” v.v... nhưng chưa thấy ai oán trách ông Bụt hiền từ vì ông Bụt thương cả vạn vật cỏ cây và chỉ dạy cho con người cách diệt khổ để đạt tới Cực Lạc, Niết Bàn.
Ông Bụt chỉ dạy phương pháp khoa học để phá màn vô minh: hãy tự thấy cuộc nhân sinh hệ lụy theo kinh nghiệm của mình, tìm nguyên nhân của khổ đau sinh tử một cách khách quan, rồi suy xét thẩm định phương cách diệt khổ bằng đại hùng (dứt bỏ dục vọng), đại lực (tự lực mình tu tập), không khác phương pháp hiện đại của y giới Hoa-Kỳ, ông Bụt từ 2500 năm trước đã S.O.A.P. (Subjective, Objective, Assessment, Plan) đúng cách chẩn bệnh, định bệnh và chữa bệnh.
Ông Bụt từng dạy suốt 49 năm giảng dạy cách diệt khổ mà thật ra chưa từng nói một lời nào và ngón tay chỉ mặt trăng nhưng ngón tay không phải là mặt trăng. Đức khiêm tốn này suốt hơn 2000 năm đã giúp đạo Phật tránh được những cọ sát ý thức hệ, vượt trên hữu và vô:
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Kìa xem bóng nguyệt lòng sông
Ai hay không có, có không là gì! (3)
Về phương diện triết lý, Niết Bàn chính là tầng trời tâm linh cao cả và con người vốn mang Phật tính, nếu tu luyện đúng cách, đều có thể tự lực (đại lực) đạt tới như ông Bụt đã thể nghiệm. Tới đây Phật triết được nhân loại tin tưởng thành Phật giáo, một tôn giáo không cần tới huyền thoại, không cần tới thần quyền, vì như Nho giáo tâm niệm, con người vốn mang thần tính:
Hiền Như Bụt (Từ tri thức tới trí tuệ là chặng đường luyện Tâm Bụt, sách PDF_Hạ Long Bụt Sĩ
***
Source:
https://halongvandan.wordpress.com/hien-nhu-but/
Kính mời xem bài điểm sách này của Lão Cư Sĩ Thiện Quả Đào Văn Bình:
Đọc Hiền Như Bụt của Hạ Long Bụt Sĩ
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật. (xem tiếp)
***