Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyền Thực, Thánh Đạo và Phật Giáo

07/11/202118:59(Xem: 12350)
Quyền Thực, Thánh Đạo và Phật Giáo

Phat thuyet phap


QUYỀN THỰC
THÁNH ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO
Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm



Phần I
Phật giáo, chiếc nôi phổ môn của nhân loại



Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”.

Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”.

Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh.

Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.

Theo Pháp Hoa Tông chân như trong vạn pháp, chư Phật và chư Bồ Tát vì vậy mà quyền xảo ứng hiện vô lượng môn, hóa hiện vô lượng thân tướng làm lợi ích đưa đường cho chúng sinh thành tựu Bồ đề. Sư Trạm Nhiên (711-782), là vị Tổ thứ chín Pháp Hoa Tông, nói: “Từng đoạn thi thiết giáo hoá đều dùng pháp môn Tiệm – Đốn thích hợp với căn cơ của chúng sanh, hoặc là Đại hoặc là Tiểu đều vì căn cơ chúng sanh mà ban cho giáo pháp sai biệt. Chư Phật dùng lực phương tiện, chỉ ra theo ba Thừa giáo, chúng sanh đắm trước khắp nơi, dẫn dắt khiến được ra khỏi” (Pháp Hoa Huyền Nghĩa Thích Tiêm).

Pháp Hoa Tông còn được gọi là Nhất Thừa Viên Tông vì tông này tuyên dương diệu nghĩa của nhất thừa viên đốn. Ba thừa là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ tát thừa. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện, Phật nói cho chúng ta hiểu rằng “Phật dùng nhiều phương tiện khác nhau để hiển bày Đệ Nhất Nghĩa”. Nhiều phương tiện khác nhau cũng có thể hiểu là tám vạn bốn ngàn pháp môn, cho nên không hẳn chỉ là Tam thừa quy về Nhất thừa mà muôn đường vạn nẻo từ các pháp được thánh hiền thuyết ra đều quy về Nhất thừa. Vì vậy hoặc nói Đại, hoặc nói Tiểu cũng không hàm ý lớn hoặc nhỏ, cao hoặc thấp một cách cố định. Nếu ở nơi vô trụ mà lập ra tất cả pháp thì đó mới được gọi là chánh pháp.

Vô trụ cũng chính là phá chấp, tức cởi bỏ tâm phân biệt nương vào sự thấy biết sai lệch của chính mình về vạn sự vạn vật, trong đó, cái chấp có thể đưa đến nguy cơ hủy diệt con đường giải thoát là chấp pháp. Thân người dù là thân phàm phu hoặc thân bậc trí cũng được kể là phương tiện cực kỳ cần thiết, ví như chiếc bè đưa người qua sông. Mặc dù là vậy nhưng sự chấp lấy thân tướng vẫn chưa nguy khốn hơn sự chấp pháp, tức là mê chấp vào một học thuyết, một nguyên tắc, hoặc một hệ thống giáo điều nào đó, cho dù học thuyết, nguyên tắc đó từ kim khẩu Phật thuyết ra. Từ tâm chấp pháp này nảy sinh các sự phỉ báng, bài bác nhau ngay cả trong Phật giáo, đối với những vấn đề đơn sơ như pháp môn. Những sai lầm đáng tiếc này xảy ra cũng vì không biết rằng tuy là nhất thể mà có muôn vàn tên gọi khác biệt, không biết rằng một trong một ngàn tên gọi khác của Đế Thích là Kiều Thi Ca, không biết rằng Đức Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương, đầy đủ mười hiệu, hiện đang thuyết pháp, là một ứng hóa thân khác của Đức Thích Ca Mâu Ni, như trong đoạn kinh văn sau đây:

“Bồ tát Kiên Thủ thưa với Đức Phật rằng:

-Thưa Đức Thế Tôn! Thọ mạng của Phật là bao nhiêu, đến thời gian nào nhập diệt?.

Đức Phật bảo với Bồ tát Kiên Thủ:

-Phương Đông cách nơi này ba vạn hai ngàn cõi Phật có cõi nước tên gọi Trang Nghiêm, Đức Phật ấy danh hiệu là Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương, đầy đủ mười hiệu, hiện nay đang thuyết pháp. Đức Phật ấy vốn có thọ lượng như vậy, thọ mạng của Ta cũng như vậy.

Lại hỏi:

-Thọ mạng của Đức Phật ấy là bao nhiêu?

Đức Phật dạy:

-Ông tự mình đến hỏi thì Đức Phật ấy sẽ trả lời.

Bồ tát Kiên Thủ nhờ thần lực của Phật trong khoảng một niệm liền đến nơi cõi nước ấy đảnh lễ, vòng quanh Đức Phật rồi thưa với Đức Phật rằng:

-Thưa Đức Thế Tôn! Thọ mạng của Ngài là bao nhiêu, thời gian nào Ngài nhập diệt?

Đức Phật ấy trả lời rằng:

-Như thọ mạng của Phật Thích Ca, Ta cũng như vậy. Ông nên biết thì thọ mạng của Ta là bảy trăm A Tăng Kỳ kiếp, Phật Thích Ca cũng như vậy.

Bồ tát Kiên Thủ trở về thưa lại với Đức Phật, Ngài A Nan liền thưa rằng:

-Như con hiểu lời Phật đã nói, Đức Phật ấy là một danh hiệu khác của Phật Thích Ca.

Đức Phật bảo ngài A Nan:

-Ông nhờ Phật lực mới biết được điều này, cho đến thượng phương có cõi nước tên gọi Nhất Đăng Minh… đều là phân thân của Phật Thích Ca”.
(Kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển Hạ).

Như vậy, các phân thân của Đức Phật Thích Ca không vì lý do gì mà nhất định phải dạy chúng sinh cõi nước đó tu tập những pháp môn mà chúng ta là người ở cõi nước này ưa thích như Thiền, Tịnh, Mật, Giáo v.v… Người thích tu Thiền cũng không nên hy vọng Đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương chỉ sẽ dạy chúng sinh cõi Nhất Đăng Minh tu theo Thiền tông.

Người thích tu Tịnh độ cầu vãng sinh cũng không nên cầu mong Đức Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương chỉ sẽ dạy chúng sinh cõi nước đó tu theo Tịnh độ tông. Người học Phật hẳn biết rằng Đức Phật sẽ tùy căn tánh chúng sinh nơi mỗi cõi nước mà thuyết ra các pháp môn thích hợp khiến chúng sinh được lợi ích. Từ điểm căn bản này có thể thấy rằng chấp Tiểu, chấp Đại, chấp Thiền, chấp Tịnh v.v… đều là sai lầm. Nếu người tu tập tự thấy rằng mình có thể thay đổi tập khí xấu khi tu Thiền, thì đối với người đó, Thiền tông là hạng nhất. Nếu người tu tập tự thấy rằng tánh tình mình trở nên hiền hòa hơn khi tu Tịnh độ, thì đối với người đó, Tịnh độ tông là hạng nhất. Không nên vì ưa thích dáng vẻ, tên tuổi của bất cứ vị thầy nào hoặc bất cứ cuốn sách nào do vị thầy ấy viết ra mà quên nhìn lại căn tánh của chính mình. Đức Phật thường dạy rằng chưa hề có một nơi nào không phải là nơi Phật đã từng xả bỏ thân mạng trong việc hóa độ chúng sinh. Ngài tùy căn tánh chúng sinh mà dùng các phương tiện đơn giản, phức tạp, toàn vẹn hoặc chưa toàn vẹn để tuyên nói khiến chúng sinh thành thục, nghe pháp mà được nhiều lợi ích.

Phẩm Thí Dụ, kinh Pháp Hoa, nói: “Bậc pháp vương phá các cõi mà xuất hiện ở đời tùy thuận vào sự ưa thích của chúng sinh mà thuyết pháp cho họ”. Đến đây, chúng ta có thể thấy tính chất phương tiện của tất cả pháp môn như những phương thức tu tập.

Khi nói đến phương tiện thì cái gì không phải là phương tiện?.




***
facebook
youtube
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 604)
Để đi vào nghiên cứu lĩnh vực ngôn ngữ của một dân tộc nào đó, nhất là để chuyển ngữ từ ngôn ngữ của dân tộc này sang ngôn ngữ của một dân tộc khác thì nhất thiết không thể thiếu được văn phạm, hoặc ngữ pháp. Bởi lẽ, nó là công cụ sử dụng, là cốt yếu để nối kết, kết cấu tạo thành câu cú, ngữ nghĩa trong ngôn ngữ cũng như trong văn chương.
08/04/2013(Xem: 628)
Sau lễ Tốt nghiệp, những “cánh y vàng” của Tăng Ni sinh khóa III -những người nhân danh “Như Lai sứ giả” lần lượt sẽ tung bay trên khắp mọi miền đất nước (cũng có thể là ở ngoài nước). Dĩ nhiên, tuỳ theo nhân duyên và hạnh nguyện, sẽ có những người ở những vai trò, vị trí khác nhau.
08/04/2013(Xem: 878)
Lịch sử loài người là một quá trình chuyển hoá liên tục, không ngừng nghỉ. Sự chuyển hoá xảy ra trên nhiều bình diện của cuộc sống và nó gắn liền với môi trường xung quanh tạo thành một hợp thể tác động hai chiều thúc đẩy loài người cứ thế phát triển mãi không ngừng.
08/04/2013(Xem: 816)
Con người là gì? Ðó là câu hỏi không đơn giản mà bao đời nay các nhà triết học và khoa học khác nhau ra công tìm lời giải đáp và đã gây ra không ít sự tranh cãi vì bất đồng quan điểm. Sách triết học Mác-Lê nin có ghi:’Câu trả lời chỉ là chơn thật khi con người có khả năng bước ra khỏi bản thân mình với tư cách là hệ thống trong quá trình vận động sanh thành’
08/04/2013(Xem: 507)
Từ thuở xa xưa cho đến bây giờ khi trí thức của con người đã được nẩy nở, đứng trước vũ trụ bao la, người ta bắt đầu bàng hoàng đánh dấu hỏi: Vũ trụ là gì ? Nhân sinh do đâu mà có ? Và chung kết của nhân sinh như thế nào ? Đó là những vấn đề đã làm cho tất cả các tôn giáo, các thánh nhân, hiền triết từ xưa đến nay, phải dùng hết tâm tư để tìm tòi nghiên cứu
08/04/2013(Xem: 412)
Đàng Ngoài-Đàng Trong, một giai đoạn bi ai của lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự phân chia đất nước kéo dài trên 170 năm với 7 lần hưng binh đánh nhau khiến cho muôn dân đồ thán. Cục diện huynh đệ tương tàn của hai nhà Trịnh -Nguyễn chưa kết thúc thì tiếp đến cuộc chiến tranh nông dân Tây Sơn lại nổi lên. Tiếng binh reo, ngựa hý, gươm khua không bao giờ ngớt trên đất mẹ Việt Nam thân yêu trong suốt 200 năm.
08/04/2013(Xem: 763)
Nền đạo học phương đông đã dâng tặng cho nhân loại một kho tàng tri thức vô tận về vũ trụ và nhân sinh. Trong mấy ngàn năm qua, nền đạo học này đã và đang cống hiến cho nhân loại nhiều bài học vô giá về đạo đức, về triết lý nhân sinh ...
08/04/2013(Xem: 3596)
Giải thích tổng quát về Kinh Hoa Nghiêm theo hệ Kinh tạng Đại Thừa: Đức Phật ra đời vì “hạnh phúc an lạc của chư Thiên và loài người” như lời Ngài đã từng tuyên bố. Thế nên sự sống mà Đức Phật ra đời thật vô cùng quan trọng, đó là chân lý, là Pháp âm được vang lên khắp vũ trụ sơn hà. “Pháp âm bất tuyệt” tất cả tiếng chim hót, dế ngân, sóng vỗ, thảo mộc, khai hoa, thông reo suối chảy, đến tiếng đá rơi ... đều là pháp, không nơi đâu không phải là pháp.
08/04/2013(Xem: 2233)
Trong quyển Nhập Bồ Tát hạnh có nói: “Muốn diệt trừ vô lượng khổ đau trong ba cỏi, và trừ những nỗi bất an cho hữu tình, muốn hưởng được trăm thứ khoái lạc, thì đừng bao giờ xả bỏ Tâm Bồ Đề. Những hữu tình đang bị trói buộc trong ngục sinh tử mà phát Tâm Bồ Đề chốc lác cũng được gọi là con của Phật, đáng được trời người kính lễ.
08/04/2013(Xem: 508)
Việt nam là một đất nước thuộc vùng Đông Nam Á, vừa tiếp cận với lục địa Châu Á, vừa chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh lớn nhất thế giới đó là Ấn Độ và Trung Hoa, đồng thời nước ta còn có nền văn minh bản địa thường được gọi là văn minh Lúa nước hoặc văn minh Sông Hồng. Sự giao thoa của hai nền văn minh trên cộng với nền văn minh bản địa đã tạo nên một sắc thái đặc biệt để cho ra đời một nền văn minh độc đáo và phong phú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567