Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hạnh phổ hiền khuyến pháp trong kinh Pháp hoa

08/04/201318:52(Xem: 541)
Hạnh phổ hiền khuyến pháp trong kinh Pháp hoa

Luận văn tốt nghiệp

HẠNH PHỔ HIỀN BỒ TÁT KHUYẾN PHÁP TRONG KINH PHÁP HOA

Thích Nữ Liên Hiệp

Phần dẫn nhập

Mục đích tối thượng của người phát tâm xuất gia là đạt thành Phật qủa. Song, muốn thành tựu qủa Vô Thượng Giác, dù đi trên bất cứ lộ trình nào nhưng giai đoạn cuối tất yếu hành giả phải trải qua quá trình hành Bồ Tát đạo theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Kinh pháp hoa là một Đại Sự của Chư Phật, là yếu môn của Bồ Tát, là Chân Như Bình Đẳng của Như Lai. Kinh chứa đựng tư tưởng Liễu nghĩa tối thượng thừa Phật giáo, chỉ có Phật cùng Phật mới hiểu mà thôi. Hàng chúng sanh phải đầy đủ niềm tin và căn lành mới có thể hội nhập được Lý Kinh phát tâm tinh tấn tu hành theo Bồ Tát đạo trải qua hằng hà sa a tăng kỳ kiếp không hề lui sụt mới mong đạt thành Chánh Giác.

Bồ Tát đạo theo tinh thần Kinh Pháp Hoa không phải là những con đường đầy hoa thơm cỏ lạ, có giếng nước trong, có tàng cây râm mát, có thảm cỏ xanh mơn mỡn cho lữ hành dừng bước nghỉ ngơi; mà lộ trình ấy chỉ toàn là gai chông, sỏi đá, những thác nước gập ghềnh, những vực sâu thăm thẳm luôn chực hờ những kẻ sa chân. Vì thế, những ai thiếu niềm tin, không đủ nghị lực chắc chắn không thể nào vượt qua những chặng đường nguy hiểm đó mà trong Kinh diễn tả từ lộ trình phàm phu đến thế giới Phật phải trải qua năm trăm do tuần đường hiểm. Do nhìn thấy chúng sanh chịu bó tay trước những khó khăn như thế mà phải vình viễn đau khổ trầm luân, đong đưa thân phận trên dòng cuồng lưu của sanh tử luân hồi; Chư Phật, hàng Bồ tát vận lòng bi mẫn không an hưởng trong thế giới Hoa – Tạng của Qúi Ngài mà bước chân vào dòng đời ngũ trược cùng làm bạn, làm thầy, làm người hỗ trợ… để sách tấn, khuyên răn, giúp đỡ nhau… đồng đi đến chân trời Tuệ giác.

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát là một vị Cổ Phật đã nhiều đời nhiều kiếp tu nhân hạnh Bồ tát, đã từng gần gũi vô số Chư phật đề thừa sự cúng dường…, từng trải thân nơi cõi ta bà để làm lợi ích cho quần sanh. Với lòng từ bi vô lượng, Ngài mang tất cả nguyện lực gia bị cho mọi hành giả đã và đang phát tâm tu, học và hành Diệu Pháp. Ngài sẵn sàng hiện thân khích lệ cho tất cả những ai chưa phát tâm sẽ phát tâm dõng mãnh thực hành Bồ tát đạo hầu đạt đến cứu cánh an vui.

Bao giờ còn chúng sanh đau khổ là Ngài còn lưu gót chân hành hoá trên mọi nẻo đường đề tuyên giảng pháp mầu tối thượng cũng như âm thầm mật tá cho những hành giả Pháp Hoa được an lành tiến dần lên bờ giác. Chính thế, mà dòng sinh mệnh của Pháp Hoa dù trải qua hơn hai mươi lăm thế kỷ vẫn trường tồn, bất biến với thời gian. Và dòng sinh mệnh ấy sẽ trôi chảy miên viễn nếu trên cõi đời này vẫn còn những người mang tâm hạnh lợi tha, vượt muôn vạn khó khăn đem Pháp Hoa chan hoà trong cuộc sống.

Nhớ lại, từ thuở nhỏ, con đã yêu cảnh núi rừng, thích vui với trăng thanh, bạn cùng với chim muông và cỏ lá. Tình yếu ấy cứ lớn dần theo năm tháng và theo tôi đến tận chốn Không Môn. Thuở ấy, con còn là một chú Sa Di ni, được học hạnh “Viễn Ly” qua bài Kinh Di giáo, đến câu:”…Dục cầu tịch tịnh vô vi an lạc, đương ly hội náo độc xứ nhàn cư …:”. Với trí tuệ thiển cận và tầm nhìn còn non dại, tuy học nhưng chưa thấu hiểu hết áo nghĩa và tôn chỉ của lời kinh; cho nên khế hợp với bẩm tánh của riêng mình và do vậy mà con thích ẩn tu trong thiền thất trên núi rừng hoang dã. Đến khi “ dòng suối Pháp Hoa” được Thầy tuyên giảng, con mới cảm nhận rằng từ lâu mình đã vô tình cô phụ hoài bão cao xa của Chư Phật, dẫm đạp lên niềm tin và ước vọng của Tôn Sư. Con thấy mình có lỗi với Qúi Ngài và không làm tròn bổn phận với quần sanh. Cũng từ đó, con nguyện mình sẽ đi trên lộ trình Pháp Hoa mà Chư Phật – Chư Bồ Tát và vị Thầy khả kính đã và đang dấn bước. Lộ trình tuy khó và hạnh nguyện của Ngài Phồ Hiền Bồ Tát vừa cao xa vừa đa dạng, nhưng nhìn lại thực trạng đau khổ của chúng sanh, người cuộc sống tuy cao sang sung mãn nhưng tâm linh luôn đau khổ bất an, kẻ xó chợ đầu đường chịu cảnh màn trời chiếu đất, miếng cơm không có ăn, manh áo không đủ mặc thì thử hỏi nội tâm đau khổ biết chừng nào! Vả lại, mục đích của người xuất tục vi Tăng phải trên cầu Phật đạo, dưới hoá độ chúng sanh. Do vậy, dù còn nhỏ, Phật học chưa thâm, nghị lực chưa dũng, trí tuệ chưa thành, lòng từ bi chưa trọn vẹn nhưng tôi nguyện cố gắng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường sẽ tu, học, noi theo Hạnh nguyện của Qúi Ngài dù chỉ trên lý thuyết và thiểu phần trong thưc tập hầu gieo duyên để mai này lấy đó là tư lương cho qúa trình tự tịnh hoá bản tâm và cùng giúp chúng sanh đồng tiến về Bảo Sở. Phải chăng, đây là tất cả tâm nguyện thiết tha để con viết lên tập Luận văn này.

Vấn đề tài liệu thì quả là một khó khăn cho bài viết. Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh Đại thừa được phiên dịch, lưu truyền và phổ biến trên khắp thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lập trường của nó. Tuy nhiên. Phần lớn các công trình ấy còn nằm nguyên ở Hán ngữ, Nhật ngữ, và Anh ngữ … chỉ có một số rất ít được dịch ra Việt ngữ. Như cuốn “ Kinh Pháp Hoa” do Học giả Đoàn Trung còn so sánh với hai bản Pháp và Hán mà dịch ra vào năm 1947, đặc biệt là cuốn Kinh “ Diệu Pháp Liên Hoa” của Hoà Thượng Thích Trí Tịnh dịch vào khoảng năm 1917 từ bản Hán “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” của Ngài Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn bản (Saddharma-punrika sutra) gồm 07 quyển, 28 phẩm là phổ biến hơn cả. Ngoài ra, cũng còn một số công trình nghiên cứu lẻ tẻ như “ Đại ý Kinh Pháp Hoa” của Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, “ Pháp Hoa Thâm Nghĩa Đề Cương” của Hòa Thượng Thích Từ Thông, “Lược giải nghĩa kinh Pháp Hoa” của Hòa thượng Thích Trí Quảng và “Pháp Hoa Huyền Nghĩa” của Cư Sĩ Mai Thọ Truyền … Như trên đã trình bày, vấn đề tài liệu nghiên cứu của Kinh Pháp Hoa tuy nhiều, nhưng vẫn còn mặt hạn chế về tài liệu bằng Việt ngữ. Hơn nữa, với tài liệu riêng nói về “ Hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền” trong phẩm ‘Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát” thì ít có vị nào giảng giải, chỉ có vài bài luận ngắn của Hoà Thượng Thích Trí Quảng mà thôi. Tuy nhiên, với những tài liệu thu thập được cùng với sự học tập nơi Hoà Thượng giáo Sư hướng dẫn bộ môn khả kính và chút ít tư lương mà thuở nhỏ Thầy đã dày công truyền thụ, tôi xin lấy đó làm nguồn tài liệu để diễn giải, trích dẫn trong tập luận này.

Đây là bài Luận văn tốt nghiệp, dẫu sao cũng là sự đánh dấu quan trọng đối với thành qủa tu học trong bốn năm dưới mái Trường CCPHVN. Chính vì vậy, con xin thành kính dâng lên niềm tri ân sâu xa đối với Hòa Thượng Hiệu trưởng Thích Minh Châu, Chư Tôn Đức và Qúi Liệt vị trong Ban Giám Hiệu, chư Hòa Thượng, chư Thượng Toạ, Chư Giáo Sư trong Ban Giảng Huấn đã vì tiền dồ Phật pháp, bất từ bi quyện, không quản tuổi cao sức yếu đã truyền trao kiến thức và kinh nghiệm tu học của Qúi ngài cho chúng con từng bước đem Đạo vào đời. Đặc biệt, con xin tri ân tấm lòng của bậc Aân Sư khả kính: Hoà Thượng Giáo Sư Tiến Sĩ Thích Trí Quảng-Trưởng Ban Hoằng Pháp Trung ương đã đôn hậu tận tụy giúp đỡ hướng dẫn con hoàn thành tập luận văn này. Sau cùng, xin trân trọng ghi ân tác giả của những tác phẩm đã cung cấp nhiều tư liệu biên khảo giá trị cho bài Tiểu luận.

Vì đây là lần đầu tiên trong việc nghiên cứu đề hình thành tiểu luận, với kiến thức còn cạn hẹp chắc chắn luận văn này sẽ không tránh khỏi những vụn về thiếu sót. Ngường mong chư Tôn Đức, chư Giáo sư, chư Pháp lữ niệm tình hoan hỷ chỉ bảo thêm.

NỘI DUNG

Chương 1: I.KHÁI QUÁT VỀ KINH PHÁP HOA

1.1 /Ý nghĩa đề kinh:

Tựa đề kinh gồm có năm chữ “ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” được gọi tắt là kinh Pháp Hoa, nói cho đủ là “ Diệu Pháp Liên Hoa giáo Bồ Tát pháp Phật hộ niệm”, hay còn gọi là “Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh”.

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, là tên được Ngài Cưu Ma La Thập dịch lại từ bộ kinh mang tên tiếng Phạn là Saddharma Pundarikasutra. Hai chữ Diệu Pháp là chỉ cho Pháp tức là chỉ cho tri kiến Phật, hay nói một cách khác là thể tánh mầu nhiệm vốn có của chúng sanh, tánh trong sáng thanh tịnh ở thánh không tăng, ở phàm không giảm, không phải đợi đến lúc thành Phật mới có, mà nó vốn sẵn có trong mỗi chúng sanh. Do vô minh phiền não che lấp nên không thể hiển lộ, còn nói một cách khác Diệu Pháp là pháp vi diệu, khó nghĩ và khó bàn, bởi vì chúng ta nói đến tri kiến Phật, là tâm thể thanh tịnh của chúng sanh là” nhất chân thật tướng pháp giới, cũng gọi là Diệu Pháp có ba nghĩa.

a)Thật tướng bình đẳng:

Là tướng chân thật của tất cả vạn pháp, tướng này không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt, không sanh, không diệt, không thường, cũng không đoạn.Thật tướng là vô tướng và cũng vì nó là vô tướng nên hình thành tất cả tướng. Như nước vốn không có tướng vuông tròn, dài, ngắn, nên gọi là vô tướng, tướng vuông thì ở trong thùng vuông, tướng tròn thì ở trong thùng tròn, nếu như nước không có sẵn tướng tròn hay vuông nhất định, thì sẽ không thành ra các tướng khác, dù có khác tướng mà nước vẫn vô tướng, mà đã là vô tướng thì nhất như bình đẳng.

b) Đại Huệ bình đẳng:

Khi chúng ta nhận thức được và ngộ nhập được thật tướng bình đẳng vô tướng đó hay còn gọi là bình đẳng Đại Huệ, Đại Huệ bình đẳng hay còn gọi một cách khác là Phật tánh, Phật tri kiến Đại Huệ bình đẳng chúng sanh đều có, nó mầu nhiệm nên gọi là Diệu Pháp “Thậm thâm vi diệu pháp”.

c) Khai quyền hiển thật, hội tam quy nhất:

Trong hội Pháp Hoa, Phật khai quyền hiển thật, hội Tam quy nhất mà đưa những pháp môn từ trước đồng về nhất thừa, vì trước đó Ngài phân ra pháp môn của Thanh Văn, Duyên giác, Bồ Tát đến hội Pháp Hoa Phật nói đó chỉ là phương tiện, “Thập phương Phật độ trung, duy hữu nhất thừa pháp, vô nhị diệc vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết”.

Liên Hoa dụ cho tri kiến của Phật, Liên Hoa tiếng Việt gọi là Hoa sen, là một loài hoa từ vũng bùn vươn lên nhưng sắc hương của nó luôn nhẹ nhàng thanh khiết và bao gồm những đặc tính cao qúy mà ở các loài hoa khác không thể có được. Cho nên kinh Diệu Pháp Liên Hoa lấy Hoa sen làm biểu tượng, vì hoa sen có nhiều đặc điểm.

Hoa sen ở trong bùn lầy nhơ nhớp mà vẫn không bị hôi tanh, vẫn đẹp thơm tinh khiết, cũng vậy trong thân Ngũ uẩn ô uế này luôn hằng hữu một pháp thân thanh tịnh hay kinh Pháp Hoa còn gọi là tri kiến Phật.

Hoa sen còn có nghĩa là nhân qủa bình đẳng, trong Hoa sen đã có quả, khi chưa nở đã có quả rồi, nên gọi là hoa qủa đồng thời, khi hoa nở thì quả cũng hiển bày, như vậy đại huệ bình đẳng, thật tướng bình đẳng từ trong nhân đã có quả và từ trong quả đã có nhân, nhân quả đồng thời.

Như chúng ta đã biết, Đức Phật đã sanh ra giữa cõi đời mà không bì nhiễm mùi đời, mà Ngài đã thoát lên tất cả những gì ô nhiễm của đời và đem lại sự an lạc và độ thoát cho chúng sanh, Ngài là Hoa sen không nhiễm mùi bùn mà còn tỏa hương cho đời.

Như vậy sự hiển lộ đồng thời của cánh, nhụy, gương, hạt đã tượng trưng đầy đủ ý nghĩa nhân quả đồng thời một cách trọn vẹn. Căn cứ cào sự hiển lộ đồng thời của nhân quả nhằm khẳng định cho chúng ta rằng: chúng sanh mặc dù đang rong ruổi theo trần lao nhơ nhớp nhưng tri kiến Phật đã tự tròn đầy trong sáng từ vô thủy vô chung.

Tuy hoa có nhiều loại khác nhau và nở có nhanh có chậm, nhưng nó đều mang một tánh đồng nhất, đó là hoa nào cũng đầy đủ gương hạt, cánh cũng vậy, còn chúng sanh tuy căn tánh bất đồng, tuy bị vô minh tham ái chấp thủ, làm lu mờ tâm tánh nhưng bản thể chơn thường kia vẫn không hề mai một, dù trong thân ngũ ấm kia, luôn bị thiêu đốt bởi lửa tham - sân - si, phiền não luôn bị ngập chìm trong ái dục vọng, nhưng không vì vậy mà Phật tánh kia bị mất đi hay nhiễm theo pháp bất thiện ấy, mà kỳ thật nó luôn tìm ẩn trong chúng sanh, như Hoa sen kia tuy trong bùn nhơ nước đọng nhưng vẫn hiển hiện sự thanh khiết. Cho nên Ngộ Aán thiền sư có nói:

“ Diệu tánh rỗng không chẳng dễ tin

Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy

Lò lửa Hoa sen nở thật xinh”

Chính vì những đặc tính đáng qúy đó mà Đức Phật đã mượn Hoa sen để đặc cho tên kinh.

Kinh là những lời dạy của Đức Phật đã nói khi còn tại thế, là những gì Ngài đã thực tu, thực chứng, nhưng quá trình thực nghiệm tâm linh và Ngài đã dạy cho chúng sanh nhằm giúp cho con người diệt trừ phiền não khổ đau đạt đến an lạc giải thoát.

Như vậy Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh là bộ kinh thuộc hệ tư tưởng tối thượng thừa, đây là giáo lý tối thượng dạy cho con người có một cuộc sống đúng theo chân lý, không bị điên đảo vì ảo tưởng trong khi sống trong cỏi Ta bà này, nếu ai hành trì kinh này thì sẽ đem lại lợi ích cho mình cho người, và cho xã hội nhân loại, và có khả năng nhận biết mình có thể thành Phật, thì Đức Phật mới đem sự thật này ra chỉ bày, chơn lý là lẽ thật của vạn pháp thành, trụ, hoại, diệt, không là chân lý, vì trên bình đẳng môn thì mọi người đều có tâm thanh tịnh như nhau, nhưng vấn đề thành Phật sớm hay muộn đều do mỗi con người gạt bỏ vô minh, bao nhiêu thì tri kiến ấy hiển bày bấy nhiêu mà gọi là chứng đắc thành Phật. Thành Phật là gì? Chúng ta chỉ tạm mượn ngôn từ để diễn tả qua một quá trình đấu tranh liên tục và phát triển về mặ giải thoát giác ngộ cãi tạo, những tư tưởng hắc ám vô minh, những tâm lý có tinh si mê ích kỷ và trở thành tư tưởng trong sáng cao đẹp, vị tha, thành Phật tức là ngày trở về bản nguyên của mình, là liễu nhân Phật tánh, còn vấn đề tu hành chỉ là việc lau bụi của gương, chùi keo của vàng, bụi và keo hết thì gương và vàng tự hiện.

“Mộc trung nguyên hữu hỏa

Nguyên hoả phục hoàn sanh

Nhược vị mộc vô hoả

Toàn toại hà vô manh”

Điều này xác định lập trường của kinh Pháp Hoa rằng mọi người sẽ thành Phật, tức trong tâm của mỗi người chúng ta đã có sẳn “Phật tánh” cũng như trong gỗ có sẳn lửa rồi vậy.

1.2/ Xuất sứ và sự truyền dịch kinh Pháp Hoa:

a) Xuất xứ:

Đối với kinh Pháp Hoa, tri thức không thể đi sâu vào đạo, hay nói khác dùng tri thức để hiểu kinh thì hoàn toàn mù tịt, vì kinh này từ hàng Bồ Tát trở xuống không thể hiểu nổi, chỉ có “Duy Phật dữ Phật nãi năng kiến tận chư pháp thực tướng”. (Chỉ có Phật vời Phật mới có thể hiểu được thật tướng của vạn pháp). Nhưng dùng niềm tin để đi vào đạo thì sẽ nhận được cái gọi là “Bất khả tư nghì” như vậy, đứng từ góc độ “niềm tin” thì dòng lịch sử kinh Pháp Hoa được khởi điểm từ phẩm “Như Lai Thọ Lượng thứ 16” từ ngũ bách ức trần điểm về trước cho đến nay, đây là lịch sử siêu hình, còn về lịch sử hiện thực tức lấy khởi điểm từ Đức Phật Thích Ca thuyết Pháp Hoa kinh ở non Linh Thứu tại thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà cho đến ngày nay. Song, trên chỉ là lịch sử truyền thừa kinh Pháp Hoa về mặt ngôn ngữ chứ chưa diễn đạt bằng văn tự, mãi cho đến thời kỳ Đại thừa Phật giáo thành lập do sự bất thiết của lịch sử cần có tiếng nói “Nhập thế tích cực” và cần có một bộ kinh có quan điểm “ nhất thừa” có khả năng dung hòa lớn, hầu thống nhất các bộ phái về mặt giáo lý mà từ đó bộ Kinh Pháp hoa được hình thành. Xét về niên đại thành lập của Kinh Pháp Hoa, quả thật là khó đưa ra một niên biểu chính xác. Các tài liệu sử chỉ đề cập một cách chung chung là Kinh Pháp Hoa chắc chắn được thành lập trước thời kỳ Ngài Long Thọ. Tuy nhiên, nhiều Sử gia về lịch sử của kinh điển đại Thừa thì tất cả đều nhất trí rằng: “ Kinh Pháp Hoa có sớm nhất là vào khoảng 100 năm trước CN, ứng với thời kỳ đầu của lịch sử thành lập Kinh diển Đại thừa Phật giáo.

b) Sự truyền dịch Kinh Pháp Hoa:

Phiên dịch:

Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ Kinh được truyền dịch ra nhiều thứ tiếng, đồng thời được lưu truyền sâu rộng trên toàn thế giới. 

Sự nghiệp dịch Kinh Pháp Hoa, ở Hán dịch. Người đầu tiên dịch Kinh này là Ngài Chi Khiêm, Cư sĩ nước Ngô, thời đại Tam Quốc (225-253TL) dịch riêng phẩm Thí Dụ gọi là “Phật dĩ Tam Xa hoán kinh”, một quyển. Sau đó, sáu bản khác nhau nữa được dịch trong sáu lần nhưng hiện tại chỉ còn ba bản được lưu hành, ba bản đã bị thất lạc nên gọi là “Lục dịch tam tồn”. Sáu bản đó là:

+”Pháp Hoa Tam Muội Kinh 06 quyển, Ngài Cương Lương Tiếp (Kalasivi) dịch năm Ngũ Phượng thứ 2 (255 TL), đời Tôn Lượng.

+ “Tát vân phần Đà lị Kinh” (Saddharma punrika sutra) 06 quyển, Ngài Pháp Hộ (Dharma saksa) dịch lần đầu, ở năm đầu Tần Thủy 265 TL, đời Tây Tấn.

+ “Chính Pháp Hoa Kinh” 10 quyển, cũng Ngài Pháp Hộ dịch lần cuối năm thứ 7, niên hiệu Thái Khang (286 TL), đời Tây Tấn.

+ “Phương đẳng Pháp Hoa Kinh” 05 quyển, Ngài Chi Đạo căn dịch, năm đầu Hàm Thanh (335 TL), đời Đông Tấn.

+ “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” 07 quyển , sau đổi thành 08 quyển, Ngài Cưu La Ma Thập (Kumarajiva) dịch năm Hoằng Thủy thứ 8 (406 TL), đời Diêu Tần.

+ “Thiêm phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh” 07 quyển, Ngài Xà La Hốt Đa (Jnanagupta) và Đạt Ma Cấp Đa (Dharmagapta) cùng dịch ở năm đầu Nhân Thọ (601 TL), đời Tùy.

Ba bản hiện đang lưu hành ấy là:

a) Chính Pháp Hoa Kinh

b) Diệu Pháp Liên Hoa Kinh

c) Thiêm phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh

Ngoài Hán dịch ra, các nhà học giả về Phạn ngữ của Âu Tây cũng thiên về nghiên cứu và phiên dịch Kinh Pháp Hoa. Năm 1852, ông Burnory nhà Phạn ngữ đầu tiên của Pháp đã phiên dịch Kinh Pháp Hoa từ chữ Phạn ra chữ Pháp gọi là “Le lotus de la Bonne toi”. Tiếp theo, năm 1884, nhà Thạc học -Kern - người Hà Lan dịch Kinh Pháp Hoa từ chữ Phạn ra tiếng Anh gọi là “The lotus of the True Law”. Năm 1913, Kern cùng với Nam Điều Văn Hùng (Nanjo Fumio) Nhật Bản đem các Phạn bản cũ và các phiến Phạn bản mới khai quật được ở các nước so sánh, đối chiếu soạn thành “Phạn văn Pháp Hoa “ …Ngoài ra, lại còn các bản ngữ dịch của Mông Cổ, Mãn Châu, Cao Ly, Nhật Bản và Việt Nam. 

Ở Việt nam, vào thời kỳ chữ Hán, bộ Kinh Pháp Hoa 06 quyển đã được dịch tại Giao Châu, nơi có Trung tâm Luy Lâu nổi tiếng vào năm 256. Bộ Kinh Pháp Hoa bằng chữ Nôm hiện vẫn còn lưu giữ tại Đông Phương Văn khố Tokyo. Đến thời kỳ Quốc ngữ, bộ Kinh Pháp Hoa đã được học giả Đoàn trung còn dịch vào năm 1937 từ hai bản Pháp và Hán. Mười năm sau, bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã được Hòa Thượng Thích Trí Tịnh phiên dịch ra. Đó là bộ Kinh phổ thông nhất trong Tăng Ni và tín đồ Phật tử Việt Nam và từ lâu đã trở thành Kinh Nhựt tụng.

Nguyên bản:

Vào khoảng đầu TK 19, Công sứ người Anh là ông Hamilton tìm thấy ở Népal một bộ Kinh Pháp Hoa bằng chữ Phạn viết trên lá bối. Sau đó, có 19 bản Pháp Hoa khác chép tay bằng Phạn ngữ được phái đoàn người Nhật, Anh, Pháp (Đức tìm thấy. Về sau, bốn phái đoàn thám hiểm Nhật, Anh, Đức, Nga tìm thêm được ở vùng Kotan sáu bộ Kinh Pháp Hoa bằng Phạn ngữ và một bộ kinh ở Kucha (quê của ngài Cưu Ma La Thập). Đến năm 1932, một bộ Kinh Pháp Hoa cổ nhất được tìm thấy ở vùng Kashmir nối liền với Afganistan. Bộ kinh này gồm 2/3 bằng chữ Phạn và một phần ba bằng chữ Magadhi là loại chữ cổ nhất của nước Ma Kiệt Đà. Gần đây, nhà học giả Hodgson đã phât hiện được nguyên bản Phạn ngữ Kinh Pháp Hoa trong phạn ngữ Phật điển ở Népal.

1. 3/ Tích môn và bản môn:

Từ xưa đã có nhiều nhà tri thức Phật giáo nghiên cứu về bản văn Phật điển, mỗi nhà đưa ra một phương pháp riêng, trong đó phải kể đến cách chia khoa văn của ngài Thiên Thai Trí giả đại sư là khúc chiếc, rõ ràng, dể hiểu. Người đọc, người nghe dể nắm bắt được yếu chỉ kinh Pháp Hoa. Theo Ngài thì toàn bộ kinh chia hai phần:

14 phẩm đầu là Tích môn.

14 phẩm sau là Bản môn.

1.3.1 Tích môn:

Tích môn nói đủ là “Tích môn tích hoá “Tích là dấu tích, môn là phương tiện. Tích môn là phương tiện thị hiện ra nơi đời hoá độ chúng sanh của Đức Phật thích Ca Mâu Ni, nhân vật lịch sử cách đây hợn 25 thế kỷ.

Tích môn chia làm 03 phần như sau:

Tự phần : Phẩm tựa: giới thiệu tổng quan.

Chính tông phần: từ phẩm phương tiện đến nửa phẩm pháp sư: trong phần này được chia 03 phần gọi là “ Tam châu thuyết pháp”.

*/ Pháp thuyết châu (phẩm phương tiện): Đức Phật giảng nói về tri kiến Phật. Đây là vần đề thâm sâu khó hiểu, chỉ có bậc đại căn đại trí mới lãnh hội được.

*/ Dụ thuyết Châu: Từ phẩm 3 (Thí dụ) đến phẩm 6 (Thọ ký) : trong khi nói pháp vẫn có người chưa thể hiểu được tri kiến Phật. Phật dùng vô số phương tiện thí dụ giảng giải cho họ hiểu hơn về tri kiến Phật.

*/ Nhân duyên thuyết Châu: Từ phẩm 7 (Hoá thành dụ) đến phẩm 9 (Thọ học vô học nhơn ký): vì hàng tiểu cơ nói nhân duyên đời quá khứ họ đã từng gặp Phật, phát tâm cầu Đại thừa. Nhưng vì cách ấm không thể nhớ được quá khứ, nay Phật nhắc lại khiến họ phát tâm lòng tin nơi khả năng thành Phật của mình.

Trong Tam chu thuyết pháp mỗi chu có 04 đoạn:

- Chính thuyết: Đức Phật nêu lên vấn đề (Phật tri kiến).

- Lĩnh giải : Vần đề ấy đước thính chúng hiểu.

- Thuật thành: Phật ấn chứng thính chúng đã hiểu vấn đề.

- Thọ ký: Phật dự đón tương lai các đệ tử sẽ thành Phật.

Lưu thông phần: Từ phẩm nửa sau của phầm 10 (pháp sư) đến phẩm 14 (An Lạc Hạnh) phần này nói về khả năng thành Phật của chúng sanh và điều kiện để hiểu và nói Pháp Hoa.

Nhìn chung phần Tích môn nổi rỏ 04 vấn đề:

a. Khai hiển: Phật vì căn cơ chúng sanh bất đồng nói ra ba thừa: Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát nhưng cuối cùng đưa về nhất Phật thừa. Gọi là ‘ Khai tam hiển nhất “hay” Khai quyền hiển thật”.

b. Phật tri kiến : Phật tri kiến là sự thấy biết toàn diện của Phật, không có ngã tính và rơi vào thiên chấp nào, nhìn sự vật một cách như thật. Đây cũng chính là trí tuệ của Phật.

c. Chư pháp Phật tướng: trên mặt hiện tượng thì vcác pháp là do duyên sanh nên chịu sự chi phối của định luật vô thường, các pháp đó không tồn tại độc lập nên không có ngã tính. Nên nói “ Chư hành vô thường, chư pháp vô ngã” là thật tướng của các pháp biểu hiện qua kinh văn là Thập Như Thị.

d. Thọ ký thành Phật: bậc thượng trung hạ căn cho đến nhất siển đề như Đề Bà- Đạt - Đa, loại súc sanh như Long nữ (rồng cái) hế thảy bậc hữu thọ vô học tất cả chúng sanh Phật đều ấn chứng sau này sẽ thành Phật.

1.3.2 Bản môn:

Bản môn nói đủ là Bản môn bản hoá.

Phật thị hiện ra các tướng như Đản sanh, thành đạo, Niết bàn… đều xuất pháp từ bản Phật, Bản môn siêu việt không gian thời gian, nếu còn tư duy nhị nguyên thì không thể nào hiều được Bản môn là bản địa xa xưa của Đức Phật và các hàng đệ tử… còn gọi là “Cửu viễn thực thành”

Bản môn có 03 phần:

Tự phần: nửa đầu phẩm Tùng Địa Dũng Xuất.

Chính tông phần: từ nửa sau phẩm Tùng Địa Dũng Xuất đến nửa đầu phẩm Phân Biệt Công Đức.

Trong phần này nói về tuổi thọ của Phật là vô lượng, điểu này biểu thị sức thần thông bí mật của Như Lai không thể nào suy lường. Nên Phật phải lấy thí dụ “ Ngũ bách trần điểm kiếp” cho hiểu và làm sáng tỏ ý tưởng “ Cửu viễn thực hành” của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và như vậy đủ biết sự nghiệp giáo hoá chúng sanh không thể nào tính đếm suy lường được, vượt cả không gian và thời gian. Từ “ Cửu viễn thực thành” cũng nói lên bản thể chơn thật trong tất cả chúng sanh, thật tướng không hư vọng của vạn pháp.

Phẩm phân biệt công đức nói về công đức của người dã tin hiểu ý nghĩa: “Cửu viễn thực thành” của Như Lai và Chúng sanh.

Lưu thông phần: từ nửa sau phẩm Phân biệt công đức đến phẩm Phổ Hiền: tuy là phần lưu thông nhưng cũng nói rỏ thêm cho phần chính tông. Người lãnh ngộ, tin hiểu, tùy hỷ, lễ bái, đọc tụng, thọ tri kinh Pháp Hoa được nhiều công đức và lợi ích, nên khuyên mọi người tu tập thục hành kinh Pháp Hoa để đạt tri kiến Phật.

1.3.3 c) Tích bản bất nhị:

Bản Phật là Phật “ Cửu viễn thực thành” thị hiện ra nơi đời đó là “ Tích Phật. Bản phật là Phật tôn giáo vượt khỏi chi phối không gian và thời gian. Tích Phật là Phật trong thế giới tương đối chịu ảnh hưởng của không gian và thời gian.

+ Trong phẩm tựa thứ nhất quá khứ Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh và Ngài Diệu Quang Bồ tát nói kinh Đại Thừa “ Diệp Pháp Liên Hoa giáo Bồ tát pháp Phật sở hộ niệm “ trải 60 tiểu kiếp.

+ Phẩm Hiện Bửu Tháp (11) quá khứ Đa bảo Phật ở nước Bảo Tích cách đây vô lượng nghìn muôn ức vô số cõi nước ở phương Đông đến nghe kinh, chứng minh và tán thán kinh Pháp Hoa.

+Phẩm Đề-bà-đạc-đa (12) tiền thân Phật l2 vị vua cầu pháp Đại thừa được vị tiên nhơn (tiền thân Đề-bà-đạc-đa) nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

+Phẩm Thường Bất kinh (20) tiền thân Phật là Thường Bất Kinh Bồ Tát lúc lâm chung được nghe 20.000 muôn ức bài kệ được sáu căn thanh tịnh, sống thêm 200 muôn ức na do tha tuổi, giáo hóa nghìn muôn ức chứng kiến trụ vào trong vô thượng chánh đẳng giác.

+Phẩm Dược Vương Bồ tát bổn sự (23) quá khứ Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, vì Ngài nhất thiết chúng sanh hỷ kiến Bồ tát cùng và chúng thanh văn nói kinh Pháp Hoa.

+Phẩn Diệu Trang Nghiêm Vương bổn sự (27) quá khứ Phật Vân Lôi Aâm Tú Vương Hoa Trí Phật có vua Diệu Trang Nghiêm xuất gia, tám muôn bốn nghìn năm tinh tấn tu hành kinh Pháp Hoa được “Nhứt thiết tịnh công đức trang nghiêm tam muội”.

Qua đó ta thấy kinh Diệu Pháp Liên Hoa từ qúa khứ vô lượng vô số ức a tăngkỳ kiếp chư Phật, chư Bồ tát đã tu rồi. Như vậy, Phật thành chánh giác từ quá khứ pháp của Phật nói ra được Ngài chứng từ quá khứ, chúng hội nơi Ngài thuyết pháp cũng có nhân duyên từ đời trước. Từ đây toát ra ý nghĩa kinh Diệu Pháp Liên Hoa không phải là bộ kinh theo lịch sử tri thức con người, mà nó là một dòng trí tuệ trôi chảy miên viễn bất tận từ thời Phật Oai Aâm Vương cho đến ngày nay và mãi mãi (Phật Oai Aâm Vương là thời Phật mà trước đó chưa có tên Phật và tên chúng sanh), đây chính là sức sống của Phật giáo Đại thừa đi vào tâm linh của con người có lòng tin nơi Phật Pháp. Mà trong kinh Hoa nghiêm nói “ Lòng tin là mẹ của các công đức”, còn đại thừa khởi tín thì nói “Biển Phật pháp mênh mông nhưng có tín căn thì vào được”. Trong ngũ căn thì tín căn đứng đầu, nhờ tín căn mà phát ra tín lực tạo nên một sức mạnh cho hành giả phát tâm tu hành không lui sụt.

Đức Phật lịch sử biểu hiện trí tuệ của Phật trong nhân gian, Đức Phật tôn giáo biểu hiện lòng từ bi theo tín ngưỡng. Nhưng từ bi và trí tuệ là hai mặt của bản thể Phật có trí tuệ thì có từ bi và ngược lại. Nếu như chỉ có một Thái tử Tất Đạt Đa tu hành thành chánh giác mả không có lịch sử của cổ Phật xa xưa thì đạo Phật không sống động như ngày nay. Nếu chỉ có Phật “Cửu viễn thực thành” mà không có một Thích ca Mâu Ni Phật, cách đây 25 thế kỷ thì cũng là chuyện hoang đường. Đức Phật lịch sử và Đức Phật tôn giáo cùng thuyết minh một chủ đề nhất quan là bản thể Phật bất diệt.

1.4/ Vị trí kinh Pháp Hoa trong hệ thống giáo lý đại thừa:

Như chúng ta đã biết, tư tưởng Đại thừa xuất hiện ngay từ thời Đức Phật còn trụ thế, mãi cho đến sau này khi Kinh Pháp Hoa ra đời thì đây chính là thời điểm hoàn thiện nhất của nền tảng tư tưởng Đại thừa. Trong đó, Kinh Pháp Hoa biểu thị một sắc thái rất độc đáo với tư cách là một tổng hòa của tư tưởng Đại thừa Phật giáo. Theo Ngài Thiên Thai Trí giả Đại sư (538-598) Vị Tổ sáng lập tông Thiên Thai thì sự hoá đạo của Đức Phật trong năm mươi năm được chia làm năm thời là Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, Pháp Hoa và Niết Bàn. Song, bốn thời trước, do căn tánh chúng sanh độn trược và bất đồng nên Đức Phật mở bày phương tiện nhằm giúp chúng sanh nương vào đó mà hướng thượng. Sau bốn mươi năm tôi luyện, Đức Phật nhận thấy căn lành của chúng hội đã thuần thục dung thông nên Ngài mới nêu lên Diệu Pháp, nói rõ lý Nhứt thừa của kinh Pháp Hoa. Đây là pháp chơn thật giúp cho chúng sanh biết nơi quy thú để từng bước hội nhập Phật thừa. Ngay từ đầu trong kinh đã xác định sự ra đời của Đức Phật với mục đích:”Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến” (Khai mở tâm huệ cho chúng sanh thấy rõ Phật tính và trở về sống với tánh Phật sẵn có của mình). Tư tưởng Nhất Phật thừa này có một sức mạnh mãnh liệt để xoá bỏ mọi thiên chấp của các bộ phái trong quá khứ về Phật đạo. Mặt khác, chỉ có tư tưởng này mới có khả năng hệ thống hoá mọi cấp độ tâm linh thể nghiệm Phật giáo trong cuộc sống. Điều này thấy rõ qua hình ảnh của những con người ác độc nhất cuồng si nhất nhưng vẫn có khả năng thành Phật. Song song đó, Ngài Cát Tạng, vị sáng lập ra “Tam Luận Tông” ra ba giai đoạn “Phế quyền tồn thật”, chính là mục tiêu tối hậu của Đức Phật, Lại nữa, với tên gọi Pháp Hoa, ở đó đã biểu hiện những giá trị chuẩn mực gồm cả chân đế và tục đế, cả lý tưởng và thực tại. Như vậy, chính những điểm đặc thù trên mà các nhà Đại Thừa cho đến các nhà nghiên cứu Phật học đều suy tôn kinh Pháp Hoa lên ngôi vị Pháp Vương “Chúng Kinh chi Vương” là vua của tất cả các Kinh vậy.

CHƯƠNG 2

2.1 Nội dung phẩm “Phổ Hiền Khuyến phát”:

Nội dung của phần kinh này nói về Ngài Phổ hiền Bồ tát từ phương đông lại, Khải thỉnh đức Như lai tuyên thuyết giáo pháp, được Đức Phật trả lời sau khi Phật nhật diệt muốn có kinh Pháp Hoa phải thành tựu được bốn pháp.

a. Được chư Phật hộ niệm.

b. Trồng cội công đức.

c. Vào trong chánh định.

d. Phát tâm cùng tất cả chúng sanh.

Bốn pháp này hay là bốn điều kiện là cửa mở cho hành giả thâm nhập vào thế giới Pháp Hoa, còn nói một cách khác người nào thực hiện được bốn điều này, người đó sẻ thành Phật.

Điều kiện thứ nhất là phải được chư Phật hộ niệm: Trước hết, Phật có thể hiểu theo hai nghĩa, một là Đức Phật bên ngoài để tâm giúp đỡ trợ lực cho hành giả khi tâm hành giả tương ứng được với Ngài, sự tương ưng này không ở trên vọng thức mà tương ưng trên chơn tâm, Phật hiểu theo nghĩa thứ hai là thể tánh sáng suốt hằng hữu nơi mỗi chúng sanh không phải là Phật bên ngoài hộ niệm cho hành giả. Như bậy, muốn được Chư Phật hộ niệm thì tâm hành giả phải tương thông với tâm Ngài tức là hành giả phải có niềm tin vững chắc nơi Đức Phật, tâm nghĩ nhừng điều như Phật nghĩ, miệng nói những lời như Phật nói, thân làm những việc như Phật làm. Chư Phật vì bi nguyện độ khắp tất cả chúng sanh. Qúy Ngài không an hưởng trong Niết Bàn tối thượng mà để tâm quán khắp pháp giới, nơi nào có chúng sanh đau khổ thì Qúy Ngài hiện thân trong tất cả các hình thức chỉ mong sao đem lại lợi lạc cho quần sanh. Hành giả noi gương Chư Phật từng bước tu tập trau luyện ba nghiệp ngày càng thuần tịnh để làm mô phạm giáo hóa chúng sanh. Hay nói khác hành giả quay trở về sống với bản thể thường hằng trong sáng của mình, lẽ đương nhiên cảm ứng đạo giao, tất yếu hành giả sẽ được Chư Phật hộ niệm. Theo Kinh thì điều kiện để hành giã được Chư Phật hộ niệm được ghi rõ trong kinh rằng ai theo Ngài Phổ Hiền tu sẽ được Đức Thích Ca xoa đầu, trực tiếp nghe Đức Thích Ca nói pháp. Được Phật hộ niệm là điều kiện chính yếu để tu Pháp Hoa, vì không có Phật hộ niệm thì hành giả khó vững bước trên lộ trình Diệu pháp.

Điều kiện thứ hai là sâu trồng căn lành. Kinh dạy hành giả phải trồng căn lành ở các Đức Phật. Trồng căn lành ở các Đức Phật có thể hiểu theo hai nghĩa:

+ Nghĩa Thứ nhất: hành giả trồng căn lành nơi các Đức Phật là hành giả chí thành lễ bái cúng dường Chư Phật để tạo liên hệ giữa hành giả và Qúy Ngài. Hiểu theo cấp bậc cao hơn thì Phật là bậc sáng suốt giác ngộ đạt quả vô thượng Bồ Đề, nên trồng căn lành có nghĩa là hành giả vun bồi phát huy trí tuệ. Muốn có trí tuệ hay Vô thượng Bồ đề, hành giả phải nổ lực chân tu thực học, thường hành thiền định. Mặt khác, theo Kinh Hoa Nghiêm thì: “Phục vụ chúng sanh là tối thượng cúng dường Phật”. Như vậy, trồng său căn lành nơi các Đức Phật cũng tức là sâu trồng căn lành ở tâm niệm chúng sanh. Hành giả sống tiếp cận với chúng sanh, thấy rõ những khó khăn, thiếu thốn, vất cả của chúng sanh trong cuộc sống, hiểu được những nỗi đau thầm kín khiến chúng sanh phiền muộn bất an, để từ đó hành giả đem tất cả tâm huyết của mình giúp chúng sanh tìm về nguồn hạnh phúc chân thật. Khi hành giả có căn lành, tâm hồn luôn hướng về Đạo pháp, những thú vui trần tục không còn mảy may tác động vào trong tâm niệm. Hành giả nghe pháp, tư duy và vui sống trong Chánh pháp. Cảm được ân đức Chư Phật, hành giả càng vữõng vàng trong niềm tin và tiến nhanh trên lộ trình giải thoát. Có Phật hộ niệm, hai điều kiện này hỗ tương lẫn nhau tạo cho hành giả cảm nhận được sư huyền diệu trong cuộc sống,từ đó thúc đẩy hành giả hòa nhập trong dòng thác trí tuệ của Như Lai. Tuy còn là thân phàm phu nhưng có đức hạnh của Phật, do đó tâm hồn hành giả bao dung cảm được hảo tướng giải thoát khiến tha nhân nhìn vào sanh tâm kính trọng và đồng khởi tâm trồng căn lành nơi các Đức Phật.

Điều kiện thứ ba: Được Chư Phật hộ niệm, sâu trồng căn lành trong tâm niệm chúng sanh nhưng nếu hành giả sống trong vọng niệm thì Phật sự có thể biến thành ma sự. Bởi vì thường hành giả yên tu trong bốn vách tường của thiền môn, không dính liùu cuộc đời, không liên hệ hệ với người, tâm hành giả dễ dàng bình ổn. Khi hành giả phải trồng căn lành nghĩa là phải thực hành Bồ tát đạo đi vào cuộc đời, tiếp cận với người, giúp người thoát khổ. Khi tiếp cận như vậy, chắc chắn tâm hành giả khởi niệm buồn phiền không còn thanh tịnh vì chúng sanh nghiệp chướng phiền não chướng sâu dày khó chuyển. Tâm dao động buồn khổ thì không có Pháp Hoa. Do đó, hành giả phải huân tu thiền định, từng phút giây không để tâm chạy theo huyễn trần. Tâm trụ định, hành giả mới quyết định những vấn đề khó khăn một cách sáng suốt mà người bình thường không giải quyết được. Dù đời có vui buồn thăng trầm đến đâu chăng nữa, chúng sanh có tệ ác khen chê cũng mặc, hành giả vẫn giữ tâm hoàn toàn thanh thoát không dao động theo từng bước chân an lạc và giải thoát của Chư vị Thiền sư.

“ Thong thả nhàn du giữa núi xanh

Bước chân thoảng nhẹ lối kinh hành

Nghiêng tai, đâu thiết lời thương ghét

Ngoảnh mặt, màng chi tiếng lợi danh

Cũng có, cũng không cho hợp cảnh

Rằng phi, rằng thị để xuôi gành

Tức tâm, tức Phật, tâm là Phật

Thế giới Thường quang lộ bóng mành”.

(Trích “Lược giải kinh Hoa Nghiêm”, trang 227 Tập 1 – TKN. Như Thanh)

Vì thế, hành giả cần luôn luôn ghi nhớ vừa trồng căn lành vừa trụ chánh định, tức sẽ được Chư Phật hộ niệm, ngược lại nếu mất chánh định, căn lành cũng mất theo và cũng không được Chư Phật hộ niệm.

Điều kiện thư tư là phải thương tất cả chúng sanh là điều kiện cuối cùng nhưng cũng là điều kiện tất yếu nhất, làm nền tảng để thành tựu mỹ mãn ba điều kiện trên. Hành giả có mở rộng vòng tay đón nhận và yêu thương hết muôn loài thì khi ấy hành giả mới quyết tâm tu hành tinh tấn, trụ đại thiền định để khi hòa vào dòng đời làm lợi ích cho chúng sanh mà không bị một mảy trần làm ô nhiễm, từ đó việc sâu trồng căn lành nơi tâm niệm chúng sanh của hành giả mới không bị thối thất dù bất cứ một trở lực nào, trái lại ngày thêm tinh tấn và như vậy hành giả luôn sống trong sự hộ niệm của Chư Phật.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Hòa thượng Thích Minh Châu diỉch Viện Nghiên cứu Phật học Việt nam ấn hành 1993 ở tập II trang 327-328). Đức Phật dạy: “Này các Tỳ Kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã làm mẹ…, cha…, anh…, chị…, con trai…, con gái…”. Hay trong quyển Development of the Divine States, Hòa Thượng Balangolda Ananda Maitreya, một trong những nhà Phật học nỗi tiếng nhất của thế kỷ này đã phát biểu: “Người này, khi là mẹ tôi trong một kiếp quá khứ đã cưu mang tôi trong bụng gần mười tháng và khi tôi còn thơ, người đã dọn rửa nước tiểu, nước dãi, nước mũi, phân của tôi, tất cả, mà không hề nhờm tởm. Mẹ vui đùa với tôi. Lúc ôm tôi vào lòng, nuôi dưỡng tôi, bồng bế tôi với đôi tay của người. Mẹ đã dưỡng nuôi tôi với tình thương sâu đậm như thế. Khi người này là cha tôi trong kiếp trước, ông liều mình vì tôi, tần tảo theo nghề buôn bán hay làm ruộng hoặc làm lụng khó nhọc chỉ mong kiếm tiền của cho tôi. Khi người sinh ra là anh, chị, con trai hay con gái của tôi, anh ấy (chị ấy)… cũng mong cầu hạnh phúc cho tôi. Vì vậy, thật là bất công khi tôi nuôi dưỡng sân hận đối với họ chỉ vì một vài nghịch ý họ đã gây cho tôi trong kiếy này”. (Trích trong” Lòng Từ trong Đạo Phật”- Trần Phương Lan hiệu đính và chú giải trang 91).

Quả thật vậy, chúng sanh trong pháp giới đều đã từng là cha, là mẹ, là quyến thuộc của ta trong nhiều đời nhiều kiếp, Do đó, đối với tất cả chúng sanh chúng ta đều thọ ân sâu dầy. Hiện tại, tuy không phải là huyết thống, là tình thân thuộc nhưng chúng ta vẫn phải đem tình thương trang trải đồng đẳng đến tất cả mọi loài, không phân biệt thân sơ, dòng giống, giai cấp. Tất cả những ai đau khổ chúng ta đều đến giúp đỡ, an ủi cho họ bớt khổ, an vui. Chúng ta phải tập yêu thương tất cả chúng sanh dù thuận hay nghịch, dù thương hay ghét… như tình thương của Đức Phật đối với muôn loài hơn cả tình thương của mẹ hiền thương con đỏ. Tình thương ấy điểm cho đời. Dù người có màng đến hay chăng thì trăng (vẫn) soi và hoa (vẫn) nở chẳng thể khác được:

“Hoa nở không phân nhà đói khổ

Trăng soi đồng sáng khắp non sông”.

Đó là bản chất của tình thương, luôn luôn cho mà không đòi nhận, luôn luôn vì tha nhân mà quên mình. Tình thương như thế mới đưa chúng ta đến điểm đích cuối cùng viên mãn lộ trình Bồ tát đạo. Như vậy, muồn có kinh Pháp Hoa sau khi Phật nhập diệt hay nói khác muốn dòng sinh mệnh Pháp Hoa được cửu trụ nơi thế gian thì hành giả phải thành tựu bốn điều kiện trên, biết dung hợp một cách uyển chuyển bốn điều kiện ấy trong lộ trình tự hành hóa tha của mình.

2.2/ Ý nghĩa “Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát”:

“ Phổ Hiền Bồ Tát” Samantabhadra Visvabhadra dịch theo âm là Tam Mạn Đa Bạt Đà La Bồ tát, Tam Mạn Đa Bồ tát… còn gọi là Biến Cát Bồ tát…

Phổ Hiền Bồ tát và Văn Thù Bồ tát là hai vị Bồ tát thường tùy của Phật. Ngài Phổ Hiền cưỡi voi trắng sáu ngà tượng trưng cho hạnh nguyện rộng khắp, hầu bên phải của Đức Phật. Ngài Văn Thù cưỡi sư tử xanh tượng trưng cho trí tuệ tuyệt vời, hầu bên trái của Như Lai. Cả hai Ngài Phổ Hiền và Văn Thù đều là bậc Thượng thủ trong hàng Bồ tát, thường trợ hóa cho Như Lai. Thân tướng của Ngài Phổ Hiền hiện hữu khắp mọi nới và công đức bao trùm khắp vạn loại một cách thuần thiện và mầu nhiệm.

Lại nói về nghĩa “khuyến phát” là nhằm bày tỏ chớ lấy trí nhõ cho là tự đủ, phải phát khởi tiến lên, cầu đạo Bồ Đề Vô thượng. Nghĩa là dù đã sạch hết năm ấm, vượt ngoài năm trược, thoát khỏi ba cõi, thức tâm tròn sáng, nhưng vẫn chưa phải là tâm rốt ráo, Diệu qủa Bồ Đề, nên cần phải khuyến phát Bồ Đề tâm tu hạnh Phổ Hiền trọn thành Phật quả. Như vậy, “Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát” có nghĩa là Ngài Phồ Hiền khuyên hành giả Pháp Hoa phát khởi theo hạnh của Ngài mới cầu thành quả Phật.”

Ngài Phổ Hiền đã tu tập những công hạnh gì và công hạnh ấy có một diệu năng như thế nào mà quả Vô thượng Bồ Đề nếu không trải qua những công hạnh ấy thì khó bề đạt được.

2.3/ Nhân hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát:

Ngài Phổ Hiền Bồ Tát xuất hiện trong phẩm “Phồ Hiền Bồ tát khuyến phát” với tư cách của một vị Đại Bồ tát thượng thủ đầy đủ uy lực, quả đức vô song, Sở dĩ Ngài có được một quả đức siêu tuyệt không thể nghĩ bàn như thế là do Ngài đã từng phát nguyện trải thân tu nhân hạnh Bồ Tát từ vô lượng kiếp cho đến ngày nay. Nhân hạnh ấy được biểu trưng cụ thể qua mười điều nguyện lớn của Ngài trong kinh Hoa Nghiêm ở phẩm Nhập Pháp Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện.

Chư Phật, các Ngài đã trãi qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp thị hiện trong tất cả chủng loại, trong từng quốc độ, trong mọi thời gian… Các Ngài đã vượt muôn ngàn gian khó đến với chúng sanh chỉ nhằm mục đích giúp cho chúng sanh thoát khổ và đi đến chân trời giải thoát an vui. Với ân đức thâm sâu cao dày đó, Phổ Hiền Bồ tát – Ngài đã nguyện đem thâm tâm tín giải, nơi ba nghiệp, thân khẩu ý thanh tịnh, mỗi thân hiện ra vô biên thân, ở trước vô lượng Phật trong khắp pháp giới mà tôn trọng lễ kính, cũng như Ngài dùng lưỡi vi diệu hơn lưỡi của Biện Tài Thiên Nữ mà ca ngợi tán dương, lại đem tất cả đồ cúng dường thượng diệu như các thứ mây hoa, … các thứ hương ở cõi trời, các thứ đèn thượng hảo mà dâng kính. Song, dù các thứ cúng dường trên là thượng diệu nhưng đối với các Như Lai thì chỉ có “Pháp cúng dường” là tối thắng. Với “Như Pháp cúng dường” Ngài đã tu hành đúng theo lời Phật dạy, trãi thân mình trong hằng hà sa số kiếp làm lợi ích cho quần sanh, chịu khổ thế cho chúng sanh, nhiếp thọ hết muôn loài, một lòng siêng năng tu tập không rời hạnh Bồ tát, chẳng bỏ tâm Bồ Đề, phút giây nào cũng nghĩ đến sự an nguy của vạn loại.

Bậc Bồ tát khi chưa thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác hay ngay cả khi đạt được mục đích cứu cánh đều luôn quán chiếu nội tâm, không cho ba nghiệp dấy khởi dù một lỗi nhỏ như vi trần. Ngài luôn trọn đem thân, khẩu, ý thanh tịnh đối trước các Đức Như Lai và chúng Bồ tát khắp cõi nước trong pháp giới và thành tâm sám hối tất cả những tội lỗi đã tạo ở quá khứ do tham, sân, si dẫn dắt. Còn đối với bao nhiêu căn lành từ khi mới phát tâm vì muốn chứng Nhứt thiết trí mà siêng tu cội phước chẳng tiếc thân mạng, trải qua số kiếp như số cực vi trần trong bất khả thuyết cõi Phật… đến trọn nên quả Vô thượng Bồ đề của chư Phật, hay bao nhiêu công đức dù nhỏ như mây trần của tứ sanh lục đạo cũng như của mười phương ba đời tất cả Chư vị Thanh Văn, Bích chi Phật, những hạnh cần khổ khó làm của các bậc Bồ tát, ngài đều phát tâm tùy hỷ. Để chúng sanh được mãi mãi đượm nhuần suối pháp, cho tâm thức vạn loài gột sạch những cấu uế nhiễm ô, ngài đã ân cần khuyến thỉnh ba đời mười phương chư Phật luôn vận hành Chánh pháp. Cũng như tự thân, ngài luôn bắt buộc chính mình phải tinh tấn đem ánh sáng Chánh pháp soi rọi khắp mọi nơi, cho nhân sinh tìm về bền bờ an vui giải thoát. Ngài thỉnh Phật trụ mãi thế gian để làm suối nguồn an lạc cho chúng sanh hết khổ. Nhưng thị hiện sanh thân thì cũng phải thị hiện Niết Bàn, bởi lẽ Đức Phật hiện thân cũng là một người bằng xường bằng thịt lẽ tất yếu phải tuân theo định luật vô thường. Điều này mang ý nghĩa Ngài mong muốn chúng sanh trụ mãi trong Phật tánh của mình, như thế mỗi bước chân, mỗi lời nói, mỗi tư duy đều là thể hiện hạnh nguyện “thỉnh Phật trụ thế”.

Đấng Tỳ Lô Giá Na Phật ở cõi Ta Bà, từ khi mới phát tâm tinh tấn không hề lui sụt, đem bất khả thuyết thân mạng ra mà bố thí, lột da làm giây, chẻ xương làm viết, chích máu làm mực dùng biên chép kinh điển chất cao như núi Tu Di, vì tôn trọng Chánh pháp nên Phật không tiếc thân mạng, huống là ngôi vua, thành ấp, cung điện, vườn rừng… cùng thực hành bao nhiêu hạnh khó làm khác, nhẫn đến ngồi dưới gốc cấy thành quả Đại Bồ Đề, thị hiện các thứ thần thông… hay ở trong các đạo tràng, chúng hội tùy theo căn tánh của mỗi hạng mà giáo hóa cho chúng sanh đều đuợc thành thục, nhẫn đến thị hiện nhập Niết Bàn… cả thảy hạnh đức của tất cả Chư Phật Ngài đều noi theo học tập. Bao nhiêu chúng sanh sai khác trong tất cả cõi ở mười phương pháp giới, hư không giới là những loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh… Ngài đều tùy thuận tất cả mà thực hành các sự vâng thờ, cúng dường như kính cha mẹ, như thờ bậc Thầy cùng A La hán, nhẫn đến Như Lai đồng nhau không khác. Trong các loài ấy, nếu là kẻ có bệnh, Ngài vì họ làm lương y, nếu ai bị lạc đường thì Ngài vì họ mà chỉ cho con đường chánh, nơi đêm tối Ngài vì họ mà làm ngọn đuốc sáng, người nghèo thiếu Ngài vì họ làm cho được của báu. Ngài là bậc Bồ Tát bình đẳng làm lợi ích cho chúng sanh. Tôn trọng, tùy thuận, thừa sự chúng sanh cũng chính là tôn trọng, thừa sự cúng dường các Đức Phật. Vì chư Phật dùng tâm đại bi mà phát tâm Bồ đề, nhơn nơi tâm Bồ Đề mà thành bậc Chánh Giác. Ví như giữa chốn sa mạc có cây Thọ Vương to lớn, nơi gốc cây ấy được nước rưới nhuần thì cành lá hoa quả sẽ đều sum xuê tươi tốt. Cây Thọ Vương Bồ Đề ở chốn sa mạc sanh tử rộng lớn cũng như vậy, tất cả chúng sanh là gốc rễ, Bồ tát là hoa, Phật là quả. Dùng nước đại bi đượm nhuần gốc rễ chúng sanh thì có thể trổ bông Bồ tát trí tuệ và kết thành quả Phật toàn giác. Các Bồ tát dùng nước đại bi làm lợi ích cho chúng sanh, thì có thể thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên, quả Bồ đề thuộc về chúng sanh, vì nếu không chúng sanh, thì tất cả Bồ Tát trọn không thể thành đạo Vô Thượng Bồ Đề. Từ sự lễ kính ban đầu nhẫn đến tùy thuận có bao nhiêu công đức Ngài đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sanh khắp pháp giới được an lạc, không các bệnh khổ, muốn thực hành pháp ác thảy đều không thành, tu nghiệp lành thì mau thành tựu. Đóng chặt cửa ác thú, mở bày cảnh Niết Bàn. Nếu các chúng sanh được giải thoát, an vui, sớm thành Phật quả.

Qua nhân hạnh mà Phổ Hiền Bồ Tát đã gieo và công đức thù thắng mà Ngài đã đạt được, chúng ta thấy ngài đã đưa con người và cuộc đời đi đến toàn Chân – Thiện – Mỹ. Sở dĩ thực tại con người còn nhiều đau khổ, cuộc đời còn đầy dẫy sự bất an, là do chúng sanh tham lam mê đắm chạy theo dục lạc huyễn trần mà không chịu thức tĩnh để quay về bến giác. Bên cạnh đó, hàng xuất tục vi tăng phần nhiều chưa nhiệt tâm làm tròn trách nhiệm của một bậc Sứ giả Như Lai thừa hành Bồ tát đạo.Trước một trọng trách thiêng liêng cao cả: “ Tự thanh tịnh bản tâm, đem Chánh pháp soi rọi vào đời giúp chúng sanh lìa khổ được vui”; ngay từ giây phút này chúng ta phải noi theo bước chân Bồ tát Phổ Hiền cùng gieo nhân hạnh mà Ngài đã từng sâu trồng từ vô lượng kiếp.

CHƯƠNG 3

HẠNH NGUYỆN PHỔ HIỀN BỒ TÁT TRONG CUỘC SỐNG THỰC TẠI

Noi theo hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát đối với việc lễ kính Chư Phật, chúng ta thiết nghĩ Đức Phật xuất thân là một vị Thái tử, sống trong cung vàng điện ngọc hưởng thụ đầy đủ những dục lạc tối thượng ở trần gian; thế mà vì sự an lạc vĩnh hằng của chúng sanh mà Ngài phải quay lưng buông bỏ tất cả, một mình dấn thân tầm đạo trải qua bao thử thách gian nguy, chịu đau trong những nỗi đau nhất của trần gian, vượt qua thử thách trong những thử thách khó nhất của trần gian và cuối cùng Ngài là bậc có một không hai trên cuộc đời tìm ra chân lý và đem ánh sáng chân lý ấy soi đường cho chúng sanh đồng đi đến chân trời giải thoát như Ngài. Trong nhân gian đã có ai làm được việc hy hữu ấy để ngày nay giữa cõi đời xấu ác mà chúng ta vẫn được diễm phúc sống trầm mình trong suối pháp an lạc của Như Lai. Ngần ấy ân đức cũng đủ cho chúng ta chí thành lễ bái, huống nữa chúng ta lật lại từng trang sử ghi những hạnh nguyện cao cả mà tiền thân của Ngài từ vô lượng kiếp đã làm vì lợi ích của quần sanh. Chúng ta lễ kính Ngài không phải dùng thân tướng lễ lạy mà bằng lòng thành tri ân sâu xa cái ân đức cao cả của Ngài, nguyện noi theo hạnh đức trân qúy ấy. Cao hơn nữa là chúng ta thực hiện theo cách lễ của Ngài Phổ Hiền: “Nhứt thân phục hiện sát trần thân, nhứt nhứt biến lễ sát trần Phật” nghĩa là trong pháp giới mười phương, tất cả Đức Phật nhiều như bụi trần đã ra đời thành Vô Thượng Giác hay chưa ra đời còn trong tâm niệm chúng sanh chúng ta đều dùng tâm thanh tịnh mà lễ kính. Nói khác, chúng ta không những lạy tất cả Chư Phật trong qúa khứ mà những bậc sáng suốt giác ngộ, những Thiện tti thức niệm niệm sống trong Chánh Pháp của Như Lai. Tuy chưa là Phật nhưng những vị này ra đời thay thế Phật hoằng truyền Chánh Pháp đem lợi lạc cho chúng hữu tình. Ngay cả chúng sanh trong khắp pháp giới, mọi người xung quanh ta dù ác dù thiện đều đầy đủ tánh Phật, có khả năng thành Phật chúng ta đều tôn trọng kính lễ. Tấm gương ngời sáng của Đức Phật về đức tánh khiêm tốn từ dung, Ngài là bậc trí tuệ cao tột ở trên nhìn xuống mà không bao giờ khinh ai. Khi còn là Thường Bất Khinh Bồ tát, Ngài đã lập nguyện lễ kính tất cả dù người tàn ác, đánh đập, chưởi mắng, Ngài vẫn giữ trọn niềm tôn kính. Học theo hạnh Ngài chúng ta lễ Phật bằng tâm niệm kính trọng lẫn nhau. Như vậy, nơi Ta Bà xấu ác có những con người bạo ngược sẽ trở thành Phật quốc trang nghiêm, nơi đó tất cả mọi người đều là Phật vậy.

Xưng tán Như Lai là hạnh nguyện thứ hai của Ngài Phổ Hiền. Với thần lực của Ngài cũng không đủ để tán thán ân đức của Như Lai. Chúng ta hạng phàm phu không có lưỡi của Biện Tài Thiên Nữ, cũng không có thần lực tuyệt đích của Bồ tát Phổ Hiền thì làm sao đối với việc xưng tán Như Lai chúng ta thực hành cho trọn vẹn? Đức Phật dưới nhãn quaê( Tiểu thừa chấm dứt từ lúc Ngài Niết Bàn, trái lại theo tinh thần Đại thừa tại khắp năm châu, không nơi nào không có giáo lý Phật soi sáng cho người nghiên cứu, suy tư, tu hành. Vô hình trung, đức hạnh của Ngài cũng tiếp tục giáo hóa chúng sanh nên kinh Đại thừa khẳng định việc ca ngợi Phật đức không thể cùng tận. Với Phật đức không thể nghĩ bàn, hiện tại chúng ta chỉ biết âm thầm tưởng niệm ân đức cao dày của Ngài trong tâm khảm, khắc ghi những hạnh nguyện vị tha trong tâm thức của mình. Bởi ngôn từ vụng dại của thế gian làm sao nói hết tấm lòng tri ân tha thiết của chúng ta đối với biển đại nguyện thẩm sâu của Chư Phật. Trong cuộc sống tu tập hàng ngày chúng ta phải sống có ý nghĩa thật sự, từng phút giây tôi qua, chúng ta xét xem tâm niệm, hành vi, lời nói của chúng ta có nhích gần đến với Phật hay không? Hay những tập khí xấu ác từ lâu đời lâu kiếp đã trở thành chủng tử vẫn còn hiện hữu trên con người tội lỗi! Bằng cách tắm mình trong suối pháp, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm hoan lạc trong tâm, từ đó ba nghiệp thân, khẩu, ý của chúng ta trang nghiêm thuần tịnh. Với đời sống phạm hạnh, thân tướng trang nghiêm, lý tưởng vị tha cao qúy, chúng ta sẽ làm bậc mô phạm cho tất cả chúng hữu tình. Với tư cách ấy, chúng ta mới phần nào xứng đáng để ca ngợi hạnh đức vô lượng vô biên của Chư Phật. Nhìn lại các bậc Tiền Hiền khi xưa, chúng ta thấy đạo hạnh của Qúy Ngài đã làm sáng danh Đức Phật, nếp sống mô phạm của các Ngài kết thành tư cách xứng đáng để ca ngợi ân đức của Như Lai. Nhận chân ý nghĩa ấy, mọi chúng ta đều có thể thực hành hạnh nguyện thứ hai của Bồ Tát Phổ Hiền bằng cuộc sống an bình trầm mặc lấy trí tuệ chỉ đạo cho trần gian.

Tiếp theo chúng ta tập tu hạnh nguyện thứ ba của Ngài là “Quảng tu cúng dường”. Theo Phổ Hiền Bồ Tát trong việc cúng dường Phật thì “Như pháp cúng dường là tối thượng”. Nếu chúng ta cho việc cúng dường Chư Phật bằng các thứ tàng lọng, hương thơm, hoa quả… nhiều như núi Tu Di hay ngay cả việc đúc chuông, xây Chùa, độ Tăng là tối thượng thì chúng ta mang tội phá pháp. Bởi vì phẩm vật Chư Phật đâu thể dùng, chúng ta dâng cúng Qúy Ngài là để tỏ lòng tôn kính. Còn việc đúc chuông, xây Chùa, độ Tăng, cốt để hình thức Phật giáo còn được lưu truyền trong nhân gian. Thực sự, chỉ có con người thấm nhuần giáo pháp, xây dựng những ngôi Chùa tâm linh, giữ gìn tục mạng của Phật pháp mới làm cho Chánh pháp được lưu truyền. Như Pháp cúng dường là chúng ta nhìn về tấm gương của Đức Phật xem Ngài làm gì, Ngài dạy chúng ta như thế nào, chúng ta thực hiện theo lời Ngài dạy, làm theo việc Ngài làm, nói những lời như Ngài nói tức là phải thực hành Bồ Tát đạo cứu giúp quần sanh. Đúng pháp tu hành chúng ta dâng lên Đức Phật thành quả mà chúng ta tu tạo được. Trong thời kinh hàng ngày chúng ta hay cúng đường Ngũ phần hương lên chư Phật bằng miệng tụng mà ít ai dâng kính bằng thực hành. Ngay trong sinh hoạt hằng ngày chúng ta cũng có thể dâng kính Ngũ phần hương lên chư Phật bằng mọi việc làm, mọi lời nói, mọi ý nghĩ của chúng ta dù là một việc nhỏ. Từng bước chân chúng ta đi, từng ngụm nước chúng ta uống, mỗi mỗi chúng ta đều làm trong chánh niệm hay kệ trong những bài chú Tỳ Ni. Chính lúc ấy, giới hạnh chúng ta tròn đầy vì không làm tổn hoại sanh mạng của hàm linh, mà vọng tâm cũng trụ vào trong thiền định. Khi tâm an định, trí tuệ sáng suốt, gặp chuyện chúng ta bình tĩnh hoá giải cho tự thân cũng như tha nhân giải thoát khỏi những lo âu băn khoăn, sầu muộn. Cũng từ trí tuệ xuất thế mà chúng ta nhận chân thật tướng của vạn pháp, tri kiến của chúng ta không còn lệch lạc, thiên chấp hay sai lầm. Đối với chân đế và tục đế chúng ta đều viên dung vô ngại. Đó là năm phần hương, mà hàng ngày chúng ta có thể dâng lên cúng dường Chư Phật mà không cần tìm kiếm.

Chuyển sang hạnh nguyện thứ tư là sám hối nghiệp chướng. Đức Phật dạy rằng: “Tội chúng sanh nếu có hình tướng thì không chỗ nào dung chứa nỗi, tất cả những tội lỗi hiện đủ trong con người từ dáng đi, lời nói, ánh mằt, cử chỉ… nói khác từ không hình tướng, tội lỗi hiện ra hình tướng và từ hình tướng tạo thêm phần không hình tướng, hai phần này tác động hỗ tương qua lại. Đức Phật có 32 tướng hảo, 84 ngàn tế hạnh trong khi chúng sanh tràn đầy 84 ngàn phiền não trần lao. Chúng ta dù hiện kiếp là bậc xuất gia, những tội thô lớn chúng ta không vi phạm, nhưng những lỗi vi tế làm sao chúng ta tránh khỏi khi chúng ta chưa chứng quả, sự thấy nghe của chúng ta vẫn còn là phàm phu. Lại nữa, trải qua bao kiếp trôi lăn trong sanh tử chúng ta khi làm người lương thiện, khi làm kẻ tiểu nhân, lúc đầu thai làm súc sanh, khi xuống loài ngạ qủy… Tất cả tội lỗi ở quá khứ và ngay trong hiện tại khi chúng ta hội nhập vào hàng ngũ xuất gia, sống phạm hạnh trong giới luật của Phật, chúng ta mới phát hiện ra nghiệp chướng và tỗi lỗi của mình. Do đó, muốn hiện đời tội nghiệp băng tiêu để giới thân huệ mạng được tròn sáng thì mỗi chúng ta phải luôn tự quán xét những tỗi lỗi phát khởi từ đâu, hiểu được cội nguồn của nó đều do tâm điên đảo vọng tưởng mà ra, chúng ta mới diệt trừ bằng cách sám hối với tâm hồn thuần tịnh như Ngài Phổ Hiền đã dạy:

“Tội tùng tâm khởi tương tâm sám.

Tâm nhược diệt thời tội diệt vong,

Tội vong tâm diệt lưỡng câu không,

Thị tắc danh vi chơn sám hối”.

Tuy nhiên muốn thực hiện pháp tự tánh sám hối nói trên không đơn giản từ một con người mang thân nghiệp ác mà chuyển thành mẫu người giới đức thì phải trải qua một quá trình tu hành mà Ngài Phổ Hiền dạy rằng hành giả Pháp Hoa phải nhập định suy nghĩ trong 21 ngày Ngài sẽ dạy. Trên bước đường tu, chúng ta không muốn tạo thêm tội lỗi, xoá tan nghiệp chướng chỉ bằng cách từng giây phút chúng ta luôn sống với Chánh Pháp, lấy suy nghĩ Phật pháp thay cho suy nghĩ trần gian…, dần dần tâm hồn thanh thoát, mọi ý nghĩ, lời nói, cử chỉ của chúng ta đều là Phật Pháp.

Với hạnh nguyện thứ năm là tùy hỷ công đức, thoạt đầu chúng ta tưởng dễ, nhưng trên thực tế mấy ai có được tâm này. Đa số chúng sanh với tâm hồn nhỏ nhoi, ganh tỵ, thấy ai được việc hoặc hơn mình thì phiền não khởi lên, chỉ mong mình được, mình hơn và người thì lúc nào cũng phải thua kém. Tâm như thế không phải là tâm của một con người đạo đức trong xã hội, huống hồ là của một bậc xuất gia trong khung trời giải thoát. Khi ta đã phát tâm Bồ Đề, nguyện làm cho tất cả chúng sanh được an vui. Tại sao lại khó chịu khi thấy người khác tìm được an vui? Hay ta muốn chúng sanh đều chứng Phật quả, được ba cõi xưng tán thì tại sao lại buồn rầu khó chịu khi họ chỉ được vài người khen ngợi? Vi tế lắm, nhỏ nhiệm lắm cái ý niệm ích kỷ, ganh tỵ của phàm phu tánh mà chúng ta hay mắc phải! Tu hạnh này chúng ta phải cởi bỏ tâm hồn nhỏ hẹp mà mở rộng lòng ra. Lẽ đương nhiên, đối với công đức cao dầy của chư Phật thì mọi người ai cũng đều tùy hỷ tán dương, nhưng những người sống chung quanh mình hoặc hơn mình, đồng hạng với mình và thấp kém hơn mình, chúng ta cũng phải giữ tâm tùy hỷ. Một thành tựu lớn, một việc thiện nhỏ của người chúng ta cũng đều vui theo, vui chung vời niềm vui của người đạt được. Trong cuộc sống, tâm hồn chúng ta luôn giữ được niềm an lạc vui tươi là do chúng ta biết bằng lòng với việc của người. Ý thức và khả năng của người chừng đó thì việc làm, kết quả phải như vậy. Chúng ta đừng nên đòi hỏi nơi người phải như thế này hoặc như thế nọ. Điều đó, khiến người khó chịu và lòng ta cũng bất an. Chính niệm tùy hỷ đã giúp chúng ta đến gần với chúng sanh, mọi người đối với chúng ta đều là quyến thuộc, như vậy việc trồng căn lành nơi chúng sanh sẽ dễ dàng và chúng ta cũng hằng được Chư Phật hộ niệm.

Tu tập theo hạnh nguyện thứ sáu là thỉnh chuyển pháp luân. Ngày nay, Đức Phật không còn tru ỉthế thì làm sao chúng ta thỉnh Ngài thuyết pháp. Phật thuyết pháp nghĩa là Ngài đem chân lý mà Ngài đã đạt được bằng con đường thực nghiệm tâm linh trong đời sống làm cho tâm hồn an lạc, giải thoát. Như vậy, thỉnh Phật thuyết pháp là hiện tại đối với các bậc Đạt đạo, các Ngài đã trở về với Phật tánh vĩnh hằng, chúng ta khải thỉnh Qúy Ngài vì an lạc lợi ích quần sanh mà tuyên dương Chánh pháp. Hiểu theo một cách khác, trong cuộc sống tu tập, mỗi khi chúng ta để tâm dung ruỗi theo cảnh trần, ba nghiệp chúng ta không thanh tịnh, làm những điều phi pháp không hợp với Tăng cách của bậc xuất trần, không đi đến mục đích cứu cánh giải thoát khiến cho tha nhân nhìn vào phỉ báng, tâm Bồ Đề bị thối chuyển, thì chúng ta phải biết quán xét và quay về với bản tâm thanh tịnh hằng hữu của mình. Chúng ta suy tư, bắt buộc mình sống sao cho từ trong tâm niệm đến hình thức bên ngoài phải là bậc mô phạm để thân giáo, khẩu giáo, ý giáo của chúng ta là bài pháp sống động nhất, thấm sâu và lan rộng trong lòng của mọi người. Đó cũng chính là chúng ta tự khuyến thỉnh chính ông Phật của chúng ta thuyết pháp cho mình và cho tha nhân. Hiểu theo Tôn Sư Thượng Trí Hạ Quảng thì Đức Phật đồng nghĩa với trí giác. Một khi chúng ta tu tập đạt đến tâm trí thanh tịnh sáng suốt, bấy giờ chúng ta không muốn rời trạng thái an lạc vui sướng của tâm hồn, chúng ta chỉ muốn nhập diệt nhưng Ngài Phổ Hiền cất lời khuyên chúng ta nên thuyết pháp hay đó chính là chúng ta tự mình thuyết phục mình hãy đem hiểu biết truyền trao cho mọi người, đem an vui hạnh phúc của mình ban cho người. Hoặc khi chúng ta đem sự chứng ngộ của mình trao lại cho chúng sanh, giúp chúng sanh cũng được an vui giải thoát như mình, nhưng khi gặp phải những người can cường, ngu dốt không chấp nhận lại còn chống đối, tâm Bồ Đề chúng ta bị lung lay, bấy giờ ta chỉ muốn an thân trong thiền thất mặc cho dòng đời đau khổ, nhưng tâm chúng ta lại khuyên chúng ta hãy vì chúng sanh quá khổ đau và bi nguyện chúng ta đã thệ mà chuyển bánh xe pháp để hóa độ quần mê.

Tu tập theo hạnh nguyện thứ bảy là thỉnh Phật trụ thế. Theo lịch sử hiện thực, Đức Phật đã nhập diệt cách đây trên 2500 năm. Tuy sanh thân nhập diệt, nhưng Báo thân viên mãn và Pháp thân thanh tịnh của Ngài vẫn hằng hữu trên khắp cả mười phương pháp giới. Báo thân viên mãn là phước đức vô biên, là trí tuệ tuyệt vời còn tồn tại trên thế gian qua Tam Tạng giáo lý, qua phẩm chất, tư cách, qua cuộc sống cao đẹp của Chư vị Tiền bối Tổ sư trải bao thế hệ truyền thừa. Thỉnh Phật trụ thế nghĩa là chúng ta lấy giáo lý của Phật làm bậc Thầy sáng suốt bên cạnh chúng ta trong cuộc đời tu tập. Làm sao tự thân chúng ta và tất cả mọi người trong suy tư cũng như trong hành động đều thể hiện Phật chất. Đó cũng chính chúng ta đã thỉnh Phật ở lại cuộc đời bên cạnh chúng ta mà không bao giờ nhập diệt.

Hạnh nguyện thứ tám, bất cứ ai trong chúng ta muốn tìm về nguồn cội uyên nguyên, muốn vượt khỏi biển mê sanh tử thì cũng đều “thường tùy Phật học”. Tuy Phật không còn hiện hữu trên cuộc đời, nhưng giáo lý Ngài để lại chúng ta học tập theo cũng được an lạc và giải thoát. Nếu chúng ta sống không tuân theo lời Phật dạy tất nhiên sẽ đi ngoài qũy đạo của Chánh Pháp, chưa chắc có lợi cho mình mà có thể làm tổn hại đến sự an lạc của tha nhau. Tập khí chúng sanh vốn nhiều đời nhiều kiếp đã sâu trồng nên dễ phát khởi và sẳn sàng lôi chúng ta vào vòng đắm mê tội lỗi. Do đó, chúng ta phải luôn luôn tắm mình trong giáo lý Phật Đà và cần phải thân cận với các bậc Cao Tăng Thạc đức để noi theo học tập. Trong vấn đề học Phật, nơi nào có tuyên dương Chánh pháp dù khó khăn gian khổ, cuộc sống vật chất đạm bạc đơn sơ chúng ta cũng sẳn sàng vui sống để được nghe Diệu pháp.

Những tấm gương ngời sáng bất diệt của Chư Phật, của Thiện Tài Đồng tử trải thân cầu đạo, Ngài Huệ Khả chặt tay cầu Pháp hay Đàn Vương chịu Tiên nhân hành hạ đủ điều để được học Pháp Hoa Kinh, cũng như Huệ Năng âm thầm vác đá giã gạo để chờ ngày khai ngộ. Tất cả Qúy Ngài đã thể hiện trọn vẹn hạnh nguyện thiết thực và đẹp đẽ này.

Trong dòng đời, thông thường với tâm niệm phàm phu, con người hay chống trái với những người không thuận ý nhưng lại chìu theo, làm theo tất cả đối với những ai mà họ hợp ý vừa lòng, dù điều đó trải với đạo đức và tư cách của nhân loại. Trong cửa đạo, người tu chúng ta bước ban đầu khi được trang nghiêm thân tâm bằng hương giới, chúng ta nghĩ điều gì, nói lời gì, làm việc gì cũng cảm thấy là mình trọn vẹn, nên khi nhìn người xung quanh còn những điều xấu ác thì chúng ta khó chịu và không muốn đến gần, chỉ thích tìm ai tốt ai giỏi mới giao lưu học hỏi. Nếu như thế, trong cuộc đời tu, chúng ta sẽ tự cô lập lấy mình và dần mất đi quần chúng. Ngài Phổ Hiền đã dạy chúng ta phương pháp đắc nhân tâm là: “Tùy thuận chúng sanh”, đó cũng là một yếu tố đặc biệt cần thiết cho con người học đạo hành đạo của chúng ta.

Có ai uy thế hơn Ngài, giỏi hơn Ngài, có ai làm những việc khó làm như Ngài, thế mà Ngài đã nguyện tùy thuận chúng sanh trải vô lượng kiếp. Trong khi chúng ta thân phận nghèo hèn, đức độ non kém, tài năng không giỏi, trí tuệ không có mà chúng ta lại không tùy thuận chúng sanh để huân tu công đức? Tùy thuận chúng sanh là chúng ta không làm mất lòng người, chúng ta luôn sống với tinh thần chấp nhận mà không sống với ý thức đòi hỏi. Bởi vì chúng sanh, mỗi người một nghiệp thức, một hoàn cảnh, một trình độ… khác nhau thì làm sao chúng ta bắt buộc họ phải theo như ý của chúng ta được. Muốn thực hiện hạnh bằng thuận chúng sanh, chúng ta phải dùng vô số phương tiện dẫn dắt giáo hoá mới không làm trái ý tha nhân. Điểm cần yếu là chúng ta phải luôn luôn trụ ở chân tâm, chứ không phải tùy thuận theo chúng sanh để rồi bị chúng sanh đồng hoá mà chúng ta không hề hay biết. Tùy duyên nhưng bất biến, bất biến nhưng tùy duyên, đó là thái độ hành xử của bậc Bồ tát đem đạo vào đời. Noi theo các Ngài, chúng ta hoà mình vào dòng sống của nhân sinh, với mọi giai tầng trong xã hội chúng ta đều tiếp cận, sống cởi mở tìm hiểu để giúp họ từng bước điểu chỉnh tâm ý từ sai trái phàm phu trơ ũthành đúng đắn thánh thiện. Đức Phật thể hiện hạnh hằng thuận chúng sanh một cách sâu sắc trong 49 năm thuyết pháp độ sanh bằng cách diễn nói trăm vạn pháp môn và thể hiện vô số việc làm lợi ích vì nghiệp lực và tâm trạng của chúng sanh đa dạng. Vì hằng thuận chúng sanh mà vua Trần Thái Tông đã y lời chỉ giáo của Trúc Lâm Thiền Sư gác việc xuất gia tu hành mà trở về lên ngôi cửu điện để lo việc trị quốc an dân. Dù làm tất cả cho muôn dân được thái bình an lạc nhưng Ngài vẫn một mực không xao lãng việc tu tập, tâm tròn sáng, an nhiên Ngài đã trở thành bậc Thiền sư sáng danh trong đạo Phật. Cũng với hạnh nguyện cao cả ấy mà các Thiền sư Khuông Việt, Vạn hạnh, Đỗ Thuận… đã đi vào cuộc đời với một tinh thần vô trụ không phải chỉ vì tiền đồ Phật giáo mà còn vì sự sống còn của cả dân tộc , vì sự hạnh phúc an lạc cho muôn dân. Rất nhiều và rất nhiều những tấm gương ngời sáng về hạnh nguyện tùy thuận của các bậc Tiền bối để chúng ta noi theo, giờ đây chúng ta chỉ việc phát nguyện và thực hành lời nguyện ấy.

Hạnh nguyện tu tập thứ mười là hồi hướng khắp tất cả. Thông thường, người Phật tử khi làm xong một việc thiện đều phát nguyện hồi hướng công đức về một chủ đích nào đó. Có người ăn chay, tụng kinh để hồi hướng cho cha mẹ được siêu sanh tịnh độ, có người tạc hình tượng Phật để cầu phước báo trang nghiêm. Riêng những hành giả phát tâm Đại Bồ Đề hành Bồ Tát đạo, vì đã rời bỏ phước báo hữu lậu có tính cách hạn hẹp, hoà nhập cái tôi bé nhỏ của mình vào trong vạn loại đại đồng, nên mọi Công đức đều hồi hướng cho tất cả. Đây chính là hạnh lành của Tam Thế Chư Phật mà Ngài Phổ Hiền là vị Bồ Tát xương minh. Ngài dạy chúng ta làm được bao nhiêu công đức lành đều xả bỏ không giữ lại trong lòng mà đem hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh cho vô thượng Bồ Đề và chân như thật tướng. Hồi hướng cho pháp giới chúng sanh là chúng ta hồi hướng công đức tu tạo được cho tất cả chúng sanh mà không phân biệt thiện, ác, chẳng vì riêng một chúng sanh nào cũng chẳng phải vì một thân hữu nào, mà nguyện cho tất cả lìa hẳn vô lượng khổ não nơi địa ngục, ngạ qủy, súc sanh…, đoạn trừ tất cả nghiệp chướng, dứt các nghi hoặc, phát khởi lòng tin bất hoại nơi Như Lai, tu hành đúng Pháp, tinh tấn điều phục các căn, đạt đươcỉ thanh tịnh giải thoát, thành tựu quả Vô thượng Chánh giác. Song, muốn thực hiện việc hồi hướng chúng sanh, xây dựng cho chúng sanh, chúng ta phải hồi hướng Vô thượng Bồ đề nghĩa là phải phát triển tri thức, hiểu rỏ chúng sanh, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền não, nói chung chúng ta thông suốt mọi hiện tượng trong pháp giới. Khi trí giác của chúng ta đạt đến thấy biết tất cả, hai phần pháp giới chúng sanh và Vô thượng Bồ đề nhập một thành chơn như thật tướng là quả vị Như Lai.

Khi chúng ta thực hành mỹ mãn mười hạnh nguyện cao cả của Ngài Phổ Hiền trong cuộc sống thực tại tức chúng ta cũng là hiện thân của Ngài đến Ta Bà vì lợi ích của quần sanh. Thực tế, chúng ta chỉ đang tập tu nhân hạnh của Ngài, nên quả đức chưa thể nào thù diệu. Do đó, đối với chúng sanh đương thời bạo ác, đạo đức không có, chúng ta phải kiên tâm bền chí trên lộ trình Bồ tát đạo. Trong quyển Bồ Tát Hạnh trang 41, Ngài Sàntidva đã viết: “ Chỉ vì sanh nhai thôi mà những kẻ chài lưới, những nông phu, những thợ săn còn chịu đựng được nóng lạnh, đói khát. Chẳng lẽ ta đây, vì muốn giải thoát cho chúng sanh lại không làm được hơn thế sao?” hay như trong kinh Phật dạy:”Ai có ý định cho một người vật gì, dù thật nhỏ không đáng giá, mà cuối cùng không cho thì sẽ đầu thai thành ngạ qủy. Nếu ta đã thành tâm phát nguyện sẽ đem lại cho chúng sanh hạnh phúc tối thượng mà nay lại từ bỏ thì không biết đời sau ta sẽ tái sanh là gì đây?”. Như vậy, các vị Bồ tát của Ngài hôm nay không thể bỏ qua được những nỗi khổ của con người trong xã hội hiện tại. Các vị Bồ tát của ngày hôm nay không thể không thể quên chính những lời dạy của Bậc Toàn giác Như Lai. Chúng ta hãy tích cực hoạt động để tạo sự an lành cho kẻ khác!. Còn hơn nữa, theo tinh thần kinh Pháp Hoa tất cả những gì hiền hữu làm đẹp cho cuộc đời, đem lại lợi ích cho chúng sanh đều là hạnh cao qúy của Phổ Hiền: Một áng mây trôi cho những thi nhân cảm hứng nguồn thơ, một tiếng chim hót cho người vơi cơn sầu muộn, một dòng sông chảy cho con người sử dụng, cho đồng ruộng tươi xanh, cho loài bơi lượn vui đầy sức sống, một cành hoa nở mang hương sắc tô điềm cho đời, một mái lá đơn sơ cho những người cùng khổ … tất cả đều âm thầm lặng lẽ mang lại nguồn vui và sự sống cho đời. Đời có biết hay không cũng mặc, chúng vần sống một cách an nhiên tự tại mà không mong đòi đời phải mang niệm tri ân. Thực tế, những con người mà xã hội cho là thấp lém, là hạ đẳng: Những Bác Dân phu quét rác, những người lặn hụp trong những lòng kênh đen nghịt, hay nơi cầu cống bẩn thỉu thúi tha để nạo vét khai thông đường nước, những con người lội suối trèo đèo để tìm dược thảo cứu sống cho nhân loại, những chú thợ cặm cụi làm việc trong hầm mỏ để khai thác tài nguyên phục vụ cho đất nước… Chính những con người ấy với tâm nguyện vì lợi ích cho mọi người, vì sự sống còn của nhân loại, vì làm đẹp cho cuộc đời đều là hiện thân của Phổ Hiền mà trong chúng ta ít ai biết đến. Hay tất cả những ai mang lại nguồn sống cho đời như Bác Nông dân cày cấy để cung dưỡng thức ăn cho nhân loại, những bậc Thầy dạy học giáo dục cho con người biết sống nhân nghĩa, hiểu biết và yêu thương, những Bác sĩ, Y tá giúp cho nhân sinh bớt khổ trong những cơn hành hạ đớn đau của thể xác, những công nhân dệt vải đem lại cho mọi người những manh áo ấm lòng, những tấm chăn trong mùa Đông lạnh… tất cả đều biểu trưng cho hạnh nguyện cao cả của Phổ Hiền!!.

Như vậy, Bồ tát Phổ Hiền không phải là một vị Bồ tát xa lạ ở một hành tinh nào khác đến thế giới Ta Bà, trái lại Ngài là vị Bồ Tát nhập pháp giới đi vào trần lao, lặn hụp trong bể khổ trầm luân để học hết tất cả kinh nghiệm sống trên cuộc đời và mang kinh nghiệm đó hoà vào dòng sống của nhân sinh giúp cho con người cảm nhận được giá trị cao qúy của cuộc sống trong hạnh nguyện tự lợi, lợi tha.

NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬN

“Con muốn tình yêu vẹn chữ đồng

Yêu đời yêu đạo khắp Tây Đông

Tình yêu ban rải trong trời đất

Chẳng thể riêng ai giữa cõi hồng.”

(Đời sống Đức Điều Ngự)

Oâi một tình yêu cao đẹp tuyệt vời! Tình yêu ấy đã vượt không gian và thời gian để đưa Ngài Phổ Hiền Bồ tát từ lũy kiếp xa xưa trong quá khứ trở về với dòng sống của thế nhân trong hiện tại. Bằng tất cả khối óc, con tim, với bàn tay đen và tấm lòng đỏ Ngài đã phụng sự Chánh pháp, phục vụ tha nhân mà không chút mong cầu cũng không mong báo đáp, chỉ ước sao cho chúng sanh hết khổ được vui, và kỳ vọng nơi những ai đã phát tâm đi trên con đường Diệu pháp, dấn thân vào hạnh nguyện vị tha hãy phấn đấu vượt lên dù gặp muôn ngàn gian khổ sẽ có Ngài bên cạnh để khích lệ, hộ trì… Nghĩa cử cao đẹp, hạnh nguyện sâu dày, Ngài hiện hữu như ánh sáng, như mưa nguồn, như hương thơm thanh khiết. Ngài hiện diện trong cõi Ta Bà khổ lụy mà tâm niệm vẫn an vui như đóa sen thơm ngát trong bùn lầy, đem hương sắc cống hiến cho cuộc đời để đời thêm tươi đẹp.

Chúng ta, những người đã có căn lành từ vô lượng kiếp nên ngày nay tuy sống trong nhà lửa tam giới mà vẫn an lành tu học nhân hạnh Pháp Hoa Kinh, bên cạnh chúng ta lại còn được Chư Phật hộ niệm và ngài Phổ Hiền Bồ tát hiện thân giúp đỡ. Như vậy, trước thực tế xã hội, tuy tri thức con người được nâng cao, đời sống vật chất có phần sung mãn. Song, những khổ đau về sanh, già, bệnh, chết…. Những hoàn cảnh bất an của cuộc đời, những tai họa do thiên nhiên đem đến…. Đã làm cho tâm hồn con người phải oằn oại đau thương mà không tìm ra lối thoát. Lẽ nào chúng ta đã được an lành trong Chánh Pháp mà ngồi nhìn bao cảnh thương tâm! Chúng ta phải cất bước ra đi, không nài mỏi mệt, không ngại gian lao, vì chúng sanh mà phát tâm độ tận. Đẹp đẽ thay lời Đại nguyện của các Bậc Bồ tát:

“Đã từng trải bước cảnh gian lao

Đâu ngại vương mang mối rạt rào

Ra đó, vào đây theo bổn nguyện.

Khi lên, lúc xuống, vẫn thanh cao.

Hồng trần lửa đỏ từng nung đốt,

Thiên quốc tường quang chảng ngại lao.

Chí hạnh độ đời đâu thối chuyển

Nhứt tâm vì đạo chẳng xôn xao”

(Tỳ Kheo ni Như Thanh trong “Lược giải kinh Hoa Nghiêm” Tập 1 trang 158)

Lời thệ kiên quyết ấy sẽ âm vang mãi trong lòng những người con Phật có Chí nguyện độ đời, là hồi trống thúc giục cho tất cả những ai muốn thực thi con đường Bồ tát hạnh hãy hoà nhập vào dòng đời với tinh thần vô ngã vị tha mang an lạc và lợi ích cho con người và vạn loại hữu tình.

TÀI LIệU THAM KHảO

[1] Hoà thượng Thích Thiện Siêu

Vô ngã Niết Bàn

[2] Hòa thượng Thích Từ Thông

Pháp Hoa Minh Thâm Nghĩa Đề Cương

[3] Thượng tọa Thích Nhật Quang

Pháp Hoa Đề Cương

[4] Hoà thượng Thích Thanh Từ

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Gải

[5] Thượng toạ Thích Thiện Tâm

Tìm hiểu Nhân Sinh Quan Phật Giáo

[6] Hoà thượng Thích Trí Tịnh

Kinh Nhật Pháp Liên Hoa

[7] Hoà thượng Thích Thanh Kiểm

Đại Ý Kinh Pháp Hoa

[8] Hoà thượng Thích Trí Quảng

Lược Giải Kinh Pháp Hoa

[9] Thượng toạ Thích Trí Siêu

Bồ Tát hạnh

[10] Tỳ kheo Ni Như Thanh

Lược Giải Kinh Hoa Nghiêm

[11] Hoà thượng Thích Trí Quảng

30 Bài Thuyết Pháp

[12] Hoà thượng Thích Minh Châu

Kinh Tương Ưng Bộ Tập 2

[13] Trần Phương Lan

Lòng Từ Trong Đạo Phật

Nguồn: dentutraitim.com

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 497)
Từ xưa đến nay, khi nhận thức của nhân loại phát triển thì những vấn đề lớn của con người được đặt ra. Sống trong kiếp người với bao ưu phiền, khổ lụy, người ta luôn khao khát tìm ra một lẽ sống thích hợp để được an vui, hạnh phúc hơn. Rất nhiều nhà tư tưởng, trí thức của xã hội đã đưa ra những học thuyết, lý luận, cách sống tiến bộ, khoa học nhằm giúp ích cho con người.
08/04/2013(Xem: 486)
Thật là diễm phúc thay! Hạnh phúc thay! Một niềm sung sướng mà nhân loại cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ đã được đón nhận một bậc vĩ nhân giáng sanh vì đại nguyện: “Ta ra đời vì hạnh phúc và an lạc cho chư thiên và loài người”.
08/04/2013(Xem: 3309)
Có biết bao là sự biến cố giữa cuộc đời và cũng có biết bao sự khổ đau giữa cuộc sống trầm luân sanh tử, vì do những cái giả tạm không thực mà tạo nên. Nếu giáo dục được hiểu là suối nguồn văn hĩa và văn minh của nhân loại, thì đâu sẽ là một nền giáo dục đích thực để có thể đưa đến chấm dứt khổ đau trầm luân cho lồi người ?.
08/04/2013(Xem: 573)
Giới luật là điều cần thiết nhất cho người xuất gia vì “Giới luật là thọ mạng của Phật pháp. Giới luật còn thì Phật pháp còn”, giới luật là những điều ngăn cấm từ kim khẩu của Phật thuyết chế ra thành giới pháp, giới tướng để các chúng đệ tử Phật thực hành giới hạnh, nghiêm trì giới đức nhằm ngăn ngừa tất cả tội lỗi và giữ nhân phẩm gìn thân khẩu ý được thanh tịnh. Nhờ giữ giới mà được định tâm, nhờ định tâm mà phát sinh trí tuệ giác ngộ.
08/04/2013(Xem: 668)
Khi Đức Phật còn tại thế, hàng đệ tử nương đạo phong của Ngài tu tập mà chứng ngộ. Bởi trí tuệ siêu việt của ngài đã cảm hóa nhân sinh rất có hiệu quả. Do vậy chúng ta càng tự hào biết chừng nào khi nhân loại hòa nhập vào giáo lý thậm thâm vi diệu. Do vậy, Đạo Phật rất cần sự có mặt của Tu sĩ vừa có Giới hạnh, vừa có trình độ Phật học lẫn thế học thật vững vàng mới cùng nhau xây dựng ngôi nhà
08/04/2013(Xem: 661)
Ấn độ là một nước có nền văn hoá truyền thống lâu đời thuộc bậc nhất thế giới, với những trường phái triết học lỗi lạc. Nhưng không sao thoả mãn cái nhu cầu giải thoát con người ra khỏi xiềng xích nô lệ bởi xã hội thống trị phân chia giai cấp và không thể giải thoát khỏi sự ràng buộc bởi vật chất hay cố chấp của tinh thần.
08/04/2013(Xem: 472)
Hoằng pháp là nhiệm vụ quan trọng của người tu sĩ Phật giáo. Chư Phật cũng như chư Bồ tát đều có những hạnh nguyện cao cả như thế. Ngày xưa Tổ Bồ Đề Đạt Ma vượt ngàn dặm xa xôi từ Ấn Độ sang Trung Quốc truyền giáo. Trong lịch sử đã có biết bao vị Tổ đã không quản gian lao khó nhọc để đến với những đất nước xa xôi như Tây Tạng cao ngất hay nước Nga giá rét…
08/04/2013(Xem: 568)
Từ Bi, khi nghe nói về hai tiếng Từ Bi, ôi! Sao mà ngọt ngào, sao mà dịu mát. Hai tiếng “Từ Bi” lần đầu tiên đi vào trong tâm khảm con thuở vừa mới lên mười.
08/04/2013(Xem: 577)
Cuộc sống vẫn đang tiếp diễn, nhưng trong đó có bao vấn đề gay go, rắc rối, hiểm nguy đang âm ỉ hoặc đã bộc phát ra (đói rét, bịnh tật, âu lo, nghi nan, tị hiềm, chia rẽ, hận thù, khủng bố, chiến tranh…). Con người vẫn đang sống với nhau nhưng trong đó luôn hục hặc, xung đột và chưa bao giờ là thực lòng với nhau, cho đến muốn trấn áp, thủ tiêu lẫn nhau.
08/04/2013(Xem: 529)
Ngày xưa, do chịu ảnh hưởng nền giáo dục của Nho giáo nên người Việt Nam ta rất coi trọng tư tưởng tôn Sư trọng đạo, cho dù vị Thầy ấy là thầy dạy nghề hay là thầy dạy chữ thì vị trí của người Thầy cũng rất được tôn kính chỉ đứng thứ hai sau nhà Vua, trên cả Cha Mẹ theo tinh thần Quân-Sư-Phụ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567