Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Suối nguồn thực tại của người xuất gia

08/04/201318:32(Xem: 531)
Suối nguồn thực tại của người xuất gia

Luận văn tốt nghiệp

SUỐI NGUỒN THỰC TẠI CỦA NGƯỜI XUẤT GIA

Thích Nhuận Tường 

A - PHẦN DẪN NHẬP

Trong đạo Phật, tu học là làm sao để cho bản thân chúng ta ngày mỗi trở nên an lạc hơn và thánh thiện hơn. Một ngày tu học đúng pháp sẽ giúp ta thấy rõ mình hơn, thấy rõ những người xung quanh hơn và làm cho đời sống của ta có ý nghĩa hơn. Một thi hào người Tây Phương có câu : “Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống” cái biết ấy nếu chúng ta đem áp dụng vào cuộc sống hằng ngày thì mọi việc sẽ trở nên thông suốt tốt đẹp “biết mình, biết người trăm trận trăm thắng”. Để có được một cuộc sống dung hòa giữa mình và người, giữa người và vạn vật xung quanh, thì ít nhất cá nhân cũng phải biết tự giác và ý thức cao độ trong cuộc sống cộng đồng, làm cho người vui, chính là đã tưới tẩm nhân lành trong chính tâm mình. Mỗi một người sinh ra trong cuộc đời này, do có một ý thức sống mà hình thành cho mình một lối sống khác nhau, hạnh phúc hay khổ đau là do chính mình tạo tác. Đời sống vật chất không thể quyết định hạnh phúc bền vững cho cuộc đời ta vì nó chỉ là phương tiện sống cần thiết cho mọi sinh hoạt hàng ngày, mang tính chất hữu hạn.

Người có cuộc sống hạnh phúc thực sự, phải biết cân bằng giữa đời sống vật chất và tinh thần, khôn ngoan buông bỏ những gì không cần thiết, hướng dẫn đời mình được nhẹ nhàng thanh thản, dựa trên thái độ sống cao đẹp, biết bao dung và rộng lượng, xây đắp trong tâm hồn mình chất liệu tình thương và sự bình ổn của tâm hồn. Đó chính là niềm hạnh phúc lớn nhất của một kiếp người . Khi chúng ta có một đời sống tâm linh trong sạch thì sẽ có một thân thể khỏe mạnh, tráng kiện, cũng vậy khi thân thể bạc nhược, đau yếu thì làm sao có được những tâm hồn thánh thiện. Đức Phật sở dĩ luôn giữ trên mặt Ngài một nụ cười siêu thoát vì thân tâm Ngài đều thật sự giải thoát. Cho nên, muốn có hạnh phúc thì phải sống trong sạch dựa trên nền tảng đạo đức và tâm hồn trong sáng.

Thế nhưng, với cuộc sống hiện đại ngày nay, các thiếu sót cơ bản của con người hiện đại là theo chiều hướng đánh mất con người thật của mình, với những khát khao, thèm muốn cuồng loạn, không bao giờ biết thỏa mãn, có cảm giác bất an, biến động và mất thăng bằng. Với một trạng thái tâm lý như vậy khiến cho nhiều người không làm chủ được mình, dễ đi đến thoái hóa, truỵ lạc trong xã hội văn minh khoa học tiến bộ.

Dĩ nhiên, Đạo Phật không tán thán một đời sống túng thiếu, nghèo đói, khổ hạnh. Hơn thế nữa, Đạo Phật cũng không đề cao một đời sống theo dục vọng vật chất thấp hèn, hạ liệt và đầy thú tính, làm cho con người trở thành ươn hèn về mặt thể xác, hôn ám ngu đần thiếu trí tuệ. Trái lại đạo Phật luôn luôn đề cao an lạc bản thân, hạnh phúc tinh thần, một đời sống có đạo đức cao đẹp hướng thượng, một sự rạng rỡ hạnh phúc giác ngộ và giải thoát. Đạo Phật khuyến khích mọi người trở về với con người thật của chính mình, với bản tánh chân thật, biết sống hài hòa với mọi người trong xã hội, hài hòa với thiên nhiên, giữa thân và tâm, giữa từ bi và trí tuệ, giữa cảm giác và lý trí. Đạo Phật xác nhận rằng một đời sống nội tâm hài hòa như vậy, nếu con người biết hành động đúng theo lời Phật dạy để thường xuyên không ngừng sửa mình để xứng đáng là đệ tử của một bậc giác ngộ giải thoát.

“Đệ Tử Gotoma

Luôn luôn tự tỉnh giác

Bất luận ngày hay đêm

Thường tưởng niệm chánh pháp”

(Pháp cú 179)

Phương châm hướng nội quay về với suối nguồn thực tại trong veo của chính mình là một việc làm cần thiết cho mọi người tự hoàn thiện chính mình, cải tạo hành động, lời nói, ý nghĩ của mình ngày một thăng tiến hơn. Ấy cũng là mục đích hoài bảo của người xuất gia hướng đến. Chính vì những giá trị thiết thực của giáo lý Đạo Phật. Ở luận văn này, người viết xin được phép ghi lại những cảm xúc, suy tư của mình về với “Suối nguồn thực tại” đây chính là hoài bảo của người xuất gia đang sống trong dòng nước mát của chánh pháp. Đây cũng là cơ hội để người viết tự thầm nhắc nhỡ mình, tự suy nghiệm về bản thân mình, để xác định cái nhìn đúng đắn trên bước đường tu tập tìm về bảo sở, làm hành trang đi vào cuộc đời, để có được hạnh phúc an vui ngay trong hiện tại này và có đường hướng đúng đắn trong quá trình tu tập cho tương lai.

Tuy nhiên với khả năng của một tăng sinh, người viết dù rất cố gắng, song cũng không sao tránh khỏi những điều sơ suất trong việc tìm hiểu, trình bày, kính mong được sự chỉ giáo của chư Tôn thạc đức cũng như sự đóng góp ý kiến của chư huynh đệ bằng hữu gần xa.

Để hoàn thành luận văn nhỏ này, người viết xin ghi nhận nơi đây lòng tri ân sâu sắc với giáo sư Trần Tuấn Mẫn người đã tận tình hướng dẫn.

Xin nhận nơi đây lòng biết ơn Ban giám hiệu Nhà trường, bậc Tôn sư và các phật tu gần xa đã trợ duyên cho con về mặt tinh thần và phương tiện học tập trong suốt khóa học. Xin thành kính tri ân.

B. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I : KHÁI NIỆM VỀ SUỐI NGUỒN THỰC TẠI

1. Định nghĩa :

Husserl một triết gia người Đức chủ trương hiện tượng luận (phenomenology) cho rằng thực tại chính là sự vật chính nó, tức là sự giản trừ tất cả về phần mình để thực tại tự phô bày (Reality). Còn Phật giáo định nghĩa thực tại chính là những gì đang hiện hữu ở đây là bây giờ, không có sự phân biệt hay còn gọi là không tánh, chơn như. Niết bàn…

2. Trở về tâm thanh tịnh trong sáng của mình

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật bảy lần gạn hỏi Ngài Anan đều trả lời tâm ở đâu ? cả bảy lần Ngài Anan đều trả lời sai cả, không chỉ ra bộ mặt thật của Tâm, lúc thì nói tâm ở nơi con mắt, lúc thì nói tâm ở trong thân, tâm ở nơi vọng tưởng phân biệt.v.v… Cũng vậy, Nhiếp Đại Thừa luận có dụ “kẻ mù rờ voi”, người rờ trúng cái chân thì cho rằng con voi to bằng cột đình, người rờ trúng cái tai thì cho rằng coi voi to bằng cái quạt. Người rờ trúng cái đuôi thì cho rằng con voi to bằng chổi tre… tất cả đều nhận xét hoàn toàn sai lầm.

Cái Tâm chúng ta trôi chảy như dòng thác (hằng chuyển như bộc lưu), niệm niệm nối nhau lưu chuyển tạo thành một dòng tâm thức trôi chảy, niệm này diệt thì niệm khác sanh, sanh diệt trong từng giây, từng phút, tâm trạng buồn vui mãi đan chéo lên nhau, tâm phàm phu đã huân tập từ bao kiếp nào, cứ gặp cảnh duyên thì khởi tâm tham đắm vướng lụy vào, thèm muốn, chấp trước, gom về cho mình, không lúc nào biết đủ, nên cái gì không đạt được thì phiền muộn, khi nó mất đi thì đau khổ vô vàn. Do đó, muốn nhận diện được dòng tâm thức, chúng ta phải có trí tuệ sáng suốt để trực nhận ngay đây, ngay hiện tiền niệm. Từ đó, ta có được những giây phút tỉnh táo, diệt đi tất cả những tạp niệm phiền não tham, sân, hướng tâm mình vào thiện pháp, giải thoát pháp thì ngay đó phật đã hiện hữu trong ta : “Tâm Thanh tịnh ấy là tâm Phật”, khi một niệm tham, sân, ghen ghét, tật đố… khởi lên, ta biết đó là tâm niệm bất thiện, tinh tấn loại trừ nó ngay, đó là ta đã có chánh niệm, khi có chánh niệm thì việc gì cũng giải quyết tốt đẹp cả, vì tâm được định tỉnh thì sẽ có trí tuệ sáng suốt, khi ấy, tâm hồn ta được hòa nhập vào bao cái đẹp của thiên nhiên,với tâm vô phân biệt dứt hết mọi tâm lýphiền não,giữ cho đời sống của mình được bình thản an lạc trong đời sống:

“vui thay khi ta sống ,

không rộn giữa rộn ràng,

giữa những người rộn ràng,

ta sống không rộn ràng”

Một tạp niệm vị kỷ, phân biệt, so đo là đã tự đóng chặt cánh cửa tâm hồn mình, nhìn ai cũng đáng ghét, đáng xấu cả.. thì làm sao tìm được những phút giây hạnh phúc, nên trong cuộc sống hàng ngày, người khôn khéo nhất là luôn luôn rộng mở tấm lòng, sống với cái tâm chân thật, hiểu biết, bao dung cảm thông với người thì tự nhiên tâm ta được an lành, niềm vui sẽ được tăng thêm, khi làm cho người khác vui, sống tốt với người thì tự nhiên người sẽ tốt với mình, muốn người khác tôn trọng mình, trước tiên phải biết tôn trọng người. Quan trọng nhất là sống làm sao đừng để lương tâm mình cắn rứt, đừng lừa dối lòng mình…. Một người muốn trở thành thánh thiện cao cả, trước tiên phải tự mình hoàn thiện nhân cách, tự mình sửa đổi tâm tánh tham lam, sân hận, si mê, khắc phục loại bỏ những thói hư tật xấu làm khổ mình, khổ người đang ngấm ngầm trong mỗi chúng ta. Hãy ngước mặt nhìn màu xanh bao la, cho tâm hồn rộng mở. Cảm nhận hòa nhập vào bao sự mầu nhiệm.

“Tuỳ trúc hoàn hoa phi ngọc cảnh

Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân “

(Thiền Lão Thiền Sư)

“Trúc biếc hoa vàng đâu ngoại cảnh.

Trăng soi mây bạc hiện toàn chân”

Ta cất bước khỏi mặt đất suy tư, lo toan, phiền muộn, cắt đứt mọi rối rắm của ngã, ngã sở, khái niệm về thời gian, không gian mà thình lình chặt đứt vọng kiến, an trụ vào niệm hiện tiền là bản lai diện mục xuất hiện.

Như xưa kia Lục Tổ Huệ Năng huấn thị cho Thầy Huệ Minh lập niệm tại thân để có tư, kiến, minh, đạt và chứng được trí, giác, quán, quả. Do đó ta làm một việc gì cũng phải biết việc mình làm, nghĩ đến hậu quả của nó, việc nhỏ, hay lớn phải chú tâm vào mới thành tựu. Hãy nhìn và đánh giá một người có làm được những chuyện lớn hay không? Thì phải coi vào những việc nhỏ nhất mà họ đã từng làm. Nên điều thiết yếu, người tu phải chú tâm, lập niệm tại thân, sống một cuộc sống ung dung tự tại trong hiện tiền thơ thới, muốn có được điều đó người tu cần phải buông xã dần dần, một ngày một ít tinh tấn chuyển hóa mãnh liệt mọi thói quen mọi phản ứng của tâm tham đắm phàm trần, coi mọi thứ chỉ là phương tiện sống, không quá coi trọng của cải, tiền tài, danh vọng… tu tập mà không có định hướng, lập trường kiên định thì dễ bị lung lạc trước sự cám dỗ của cảnh dục trần hấp dẫn đầy ma lực. Người tu phải luôn tỉnh sáng giữ gìn giới thân huệ mạng của mình, luôn cảnh giác với lòng tham muốn đang rạo rực trong tâm mỗi con người, chặng đường thử thách đối diện với chính mình là một việc làm rất khó khăn gian khổ, đòi hỏi cần phải có nghị lực mạnh mẽ, khéo léo như người lợp nhà cẩn thận, không cho nước mưa dục lậu làm dột ngôi nhà tâm hồn của mình. Bản tâm thanh tịnh vô phân biệt hiện ra khi dứt kết mọi tâm lý phiền não, tâm ấy trong suốt nên thơ vắng lặng như nước hồ mùa thu, êm đềm và thơ mộng biết chừng nào.

3. Luôn bằng lòng với cuộc sống thực tại.

a. Không mong cầu quá khứ – đừng mơ tưởng tương lai:

Hàng ngày, chúng ta sống với một tâm niệm luôn xao xuyến mơ ước một tương lai tươi sáng với một vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, xây dựng trong tâm khảm mình đầy những tham vọng, trong khi thực lực của mình có giới hạn, thì làm sao có được một thành quả tốt đẹp, vì thế có những tâm trạng đau buồn trong quá khứ, cũng như luôn tiếc nuối những kỷ nhiệm đẹp đã qua, để rồi đánh mất đi sự sống hiện tại của mình. Chúng ta phải biết rằng sự sống nằm ngay trong hiện tại, nếu đánh mất hiện tại là đánh mất sự sống, động lực đưa ta sống trở về quá khứ và hướng đến tương lai chính là nội kết. Nội kết có ảnh hưởng tới nhận thức và cách hành xử của chúng ta trong đời sống hàng ngày, và có mặt bằng chiều Sâu tâm thức của mỗi con người.

+ Nội kết có chín thứ : tham ái, thù hận, kiêu mạn, si mê, thành kiến, chấp thủ nghi ngờ, đố kỵ và ích kỷ. Nhưng đứng đầu lại là tham ái. Những nội kết này khiến ta trở về với quá khứ.

Nghe nói tên của một người đã làm ta đau khổ ở quá khứ, ta liền bị nội kết đưa về quá khứ để nhớ lại những đau khổ trong quá khứ. Quá khứ không những là quê hương xứ sở của những kỷ niệm hạnh phúc mà còn là quê hương của những khổ đau. Nay chúng ta sống không tìm về quá khứ, chuyển hóa quá khứ thành hiện tại bằng cách ta quán chiếu, hiểu biết tự tánh của chúng, không cho chúng sai khiến ta nữa. Mặc khác, nội kết cũng là động lực đưa chúng ta mơ ước đến tương lai nhưng tương lai chưa đến và chưa có. Giống như đoàn lạc đà đi qua sa mạc, thỉnh thoảng nhìn về phía trước thấy có một dãy nước màu xanh biếc, mau chân bước tới, nhưng đến nơi không thấy cái gì, chỉ là mơ ảo mà thôi. Những bóng ma đó thường là những ước vọng, mơ tưởng hoặc lo sợ. Ước vọng có thể là do những khổ đau và thất bại trong hiện tại, vì hiện tại không có hạnh phúc nên ta để tâm nghĩ đến tương lai, rồi chấp nhận những cực nhọc, đau khổ và những thất bại. Có nhà thi sĩ nói : “Tương lai là sinh tố cho hiện tại” cũng là nghĩa ấy, con người có quyền mơ ước, hy vọng và dự tính đến tương lai, bằng sự vun đắp năng lực, bản lĩnh của mình trong cuộc sống hiện tại nhưng kỳ vọng những gì trong tầm tay, đúng với vị trí của mình chứ không chìm đắm trong mơ tưởng viễn vong, xây dựng ngôi nhà tương lai chính là chất liệu trong hiện tại, chăm sóc cho hiện tại là chăm sóc cho tương lai.

b. Trở về hiện tại là để tiếp xúc với sự sống, sự sống chỉ có thể tìm thấy trong hiện tại.

Một tinh thần giáo dục đặc sắc mà đức Thế Tôn truyền dạy là tinh thần:”Thiết thực hiện tại” phẩm “cây lau” trung tương ưng bộ kinh I dạy rằng:

“Không than việc đã qua

Không mong việc sắp tới

Sống ngay với hiện tại

Do vậy, sắc thù thắng

Do mong việc sắp tới

Do than việc đã qua

Nên kẻ ngu héo mòn

Như lau xanh lìa cành”

Với kiếp sống của con người thì chỉ hiện tại là có thực. Sống có ý nghĩa là sống với thực tại, nhìn cái nhân hiện tại thì sẽ biết cái quả trong tương lai, nhìn cái quả ở hiện tại như thế nào thì sẽ đoán biết cái nhân ở trong quá khứ đã làm gì? Nên mỗi con người sinh ra đều có một hoàn cảnh khác nhau, một tâm hồn khác nhau, một lối sống khác nhau, không ai giống ai được cả, sống ngay với hiện tại là tinh thần thiết thực. Than thở nối tiếc quá khứ, hay mơ tưởng tương lai, chẳng những để mình rơi vào chỗ phi thực mà còn để mình vướng mắc vào rối loạn tâm lý, khổ đau và đánh mất hiện tại đang là, cái hiện tại sống động, mới mẻ, đầy sáng tạo, đầy nghĩa sống và có thể hiện tại là vĩnh cửu nếu mình biết nhiếp phục ý niệm. Nếu không biết chấp nhận hiện tại như nó đang là, để vận dụng hiệu quả khả năng và trí tuệ của mình đến với an lạc, hạnh phúc và giải thoát, nếu không biết bằng lòng với thực tại thì dung sắc, tâm hồn mình sẽ bị khô héo nhanh chóng như lau xanh lìa cành. Có lẽ hạnh phúc đời mình cũng khô héo như thế.

Nếu đi vào tâm lý giáo dục hiện đại, nhất là ngành tâm lý trị liệu, chúng ta sẽ bắt gặp nhiều kết quả này, phần lớn các rối loạn sầu muộn là do con người không biết trân quý những phút giây hiện tại. Đạo Phật trước hết là những phương tiện chỉ dẫn thực nghiệm tâm linh để khám phá thực tại ngay trong sự sống. Phật giáo không hề chú trọng đến vấn đề nguyên nhân tối sơ, cũng không nói rõ về trạng thái cảnh giới sau cùng. Mục đích giáo hóa của Đức Phật không phải làm cho chúng ta thỏa mãn vấn đề triết học hay khoa học, mà là sau khi khuyến khích con người nhìn nhận sự thật đau khổ, tìm ra nguyên nhân đau khổ, thừa nhận có sự giải thoát khỏi khổ đau, và ngài chỉ dạy cho chúng ta con đường đưa đến chấm dứt đau khổ. Đức Phật chỉ dạy phương pháp thực nghiệm (Dharma practice) chứ không phải chủ nghĩa hay tín điều, giáo pháp không phải là những gì để tin một cách mù mờ mà là những điều để thực hành đem lại hạnh phúc an lạc cho cuộc sống. Đức Phật không mặc khải các sự kiện huyền bí buộc ta phải tin theo, mà ngài khuyến khích chúng ta hãy nhìn nhận sự thật. Cái sự thật ấy nó diễn ra hằng ngày trong cuộc sống của mỗi cá nhân, cuộc sống vốn không có vấn đề gì rối rắm, nó mộc mạc và dễ dàng như cỏ mọc ngoài đồng, nó hiển nhiên và rất tự nhiên. Chính ta làm cho nó rắc rối và nan giải giữa vô số tư trào. Nó không có gì trù tượng, là triết lý, là thần bí cả, chỉ khi nào ta có thể nhận được thực tại ấy mới giải phóng con người, chứ không phải là kế hoạch tư tưởng, sách vở hay hiền thánh siêu nhân nào.

Đức Phật tin chắc chắn rằng thực tại tối cao nằm trong chúng ta, và đối với ngài, đấy không phải là lý thuyết, vì chính Ngài đã thực chứng nó, nhưng Đức Phật nhấn mạnh “Bao lâu chúng ta còn chưa chuyển biến ý thức chúng ta thành nơi chứa đựng một thực tại như thế, chúng ta sẽ không tham dự vào thực tại đó được” Nó có tính cách siêu cá thể. Do đó, trước hết chúng ta phải chiến thắng những giới hạn cá nhân của ý thức “Ta”, nếu muốn đạt được đến thực tại tối hậu ấy.

Điều đó đã chứng tỏ rằng Đức Phật không phải dạy ta chỉ khởi hành bằng một mớ vốn liếng kiến thức siêu hình không có nền tảng thực nghiệm , mà rõ ràng ngài dạy chúng ta phải thực nghiệm tâm linh bằng một sự thực hành để từ đó thể hiện trên cuộc sống bằng những nguyên lý linh động, đạt được do công trình khám phá thực tại qua những thực nghiệm của bản thân.

Nói đến thực nghiệm tâm linh là nói đến nền tảng căn bản của Đạo Phật. Bởi vì đạo phật cho rằng “Thiếu sự tiếp xúc của con người với những nguyên lý mầu nhiệm của thực tại thì mọi hình thái của sự sống đều mang tính cách khổ đau và tàn tạ”. Trên khả năng giác ngộ của tâm thức, trên tinh thần tự chủ, tự do, tự tại. Đức Phật đã trao cho cuộc đời một nội dung cuộc sống toàn diện về tâm linh, luận chứng lẫn phương pháp giác ngộ, vì mọi nguyên lý của phật giáo dành cho nhân loại đều được xây dựng bằng quá trình thực nghiệm tâm linh hay nói chính xác là phương pháp tu tập. “Giới – Định – Tuệ” để đạt đến “ Chân Thiện – Mỹ”,thành tựu nhân cách cao thượng “ Bi – Trí – Dũng”. Ta không thể bảo rằng ta đi tìm sự thật, mà trước hết phải dứt bỏ tất cả thì sự thật mới lộ ngay trước mặt, như tấm gương không bị vướng bụi thì cảnh vật sẽ phản chiếu trong ấy. Vả lại, tìm sự thật, ta có thể suy luận từ cái đã biết đến cái chưa biết. Cái đã biết là ký ức, kinh nghiệm, tri thức…v..v… là cái tôi nằm ở dĩ vãng, cái chưa biết chính là “Chân – Thiện – Mỹ”, là Đạo, là bản thể của sự vật, và thông thường hơn là vẻ đẹp lung linh của muôn vật trong nắng ấm ban mai, là khuôn mặt thiên thần của em bé ngây thơ kháu khỉnh đang cười đùa hồn nhiên.

Trong cuộc sống, có những lúc chúng ta nghĩ miên man như dòng nước chảy, nhưng thỉnh thoảng cũng có lúc chúng ta dừng lại trong im lặng mà không nghĩ ngợi gì, thì đó chính là những giây phút kỳ diệu nhất trong cuộc sống. Trong khoảng không vô biên ấy, con người trở thành bao la giữa cái mênh mông của vụ trụ. Một khi tâm ta đã thanh tịnh giải thoát, thì nhìn đâu cũng thấy mọi thứ đều thanh tịnh giải thoát, là chân như thực tại. Thế giới thực tại vốn là thế giới của cây tùng, bụi tre, khóm trúc…. Thấy nó tức là thấy mặt của chân như, nó là giải thoát, là niết bàn, quê hương của giải thoát là ở đây, ngay trên mặt đất này, chỉ ngẫng đầu nhìn lên là chúng ta trong thấy trăng sao của đêm rằm tâm linh, chân như biểu hiện nơi sanh tử. Ta đến với chân như bằng một cách nhìn trực kiến tâm linh, không cho ý chí phát sinh từ dục vọng phát triển, có ý chí trong sáng hoạt động sẽ được giải thoát an lạc bằng cách gột sạch được tâm tư, chỉ khi nào ý thức vắng lặng hoàn toàn thì lúc ấy mới biểu lộ cái vô lượng vô biên, cái an vui tự tại không can hệ gì đến thời gian, không gian đang chi phối vạn vật xung quanh. Từ trạng thái cái không ấy, ánh sáng tự nhiên bừng ra và ta hiểu, hiểu thấm thía, rốt ráo chứ không hiểu bằng tri thức, suy luận. Tu tức là khôn ngoan chuyển hướng tâm thức, không cho chuyển động theo mọi tham đắm nữa, không ai có thể cứu ta bằng chính chúng ta, mà ta cứu vớt chính là biết rõ ta, biết cái quý tuyệt vời của bản tâm mình. Từ đó hành trì cho đúng hướng, là mọi việc làm phải nhằm vào tư tâm trong sáng, ý chí cao vời, đuổi bỏ mọi tham đắm ngũ dục, đổi tâm hoang vu cỏ dạy trở thành cái tâm thanh tịnh thì mới mong thoát ra khỏi được vòng tái sanh luân hồi ê ẩm quanh quẩn biết bao lần.

4. Tâm an vui, cảm nhận pháp lạc theo chánh pháp

Trong dòng đời xuôi ngược, hàng ngày con người phải tiếp xúc biết bao cảnh vui có, buồn có, hơn thua, được mất, vinh nhục .v..v.. con người mãi trôi nổi trên những làn sóng biến dịch luân hồi tâm thường bị xao động, dong ruỗi theo cảnh duyên, nên mãi khổ đau. Người đệ tử Phật hiểu rõ lý duyên khởi, ngay trong hiện tại chúng ta biết chế ngự mọi hành vi tạo tác các nghiệp ác, thì không những tất cả chuyển được hoàn toàn cái nghiệp chúng ta đang thọ lãnh, mà còn chấm dứt khổ quả trong tương lai. Đức Phật dạy: “Người xuất gia khi đối diện với những thạnh suy của cuộc sống, tâm lý không được xao động buông lơi, thả lỏng những khát vọng và những chiều hướng tâm tánh hoang dại của mình, không được than vãn trách móc, không tạo điều kiện cho phiền não phát sinh mà phải an trú trong sự định tỉnh tâm hồn, sẽ luôn luôn cảm thấy an bình, thanh thản với nụ cười trên môi phát xuất từ tận cùng tâm trí ta”. Mỗi tình huống, vui hay không vui mong ước hay không mong ước, chúng ta không nên bức xúc, khắc khoải, lo âu, tập dần đức tính buông xả, rộng lượng, bao dung và biết cảm thông với người khác. Một con người luôn sống với một tâm hồn luôn cỡi mở thì nhìn đâu cũng cảm thấy đẹp, cũng thật là đáng yêu.

Trong cuộc sống chúng ta không thể tồn tại một cách độc lập mà phải đặt giữa cái mối quan hệ trong xã hội, nên phải tiếp xúc, ứng xử giữa người này với người khác, một ngày phải đóng không biết bao nhiêu vai trên sân khấu của cuộc đời, muốn sống cho trọn vẹn, không nên sống với cái tâm ích kỷ hẹp hòi, vì sống như vậy sẽ làm khô héo tâm hồn ta, và tự mình làm cho mình cô độc giữa bao nhiêu người khác. Nên phải mở lòng sống cho chân thật và thông thoáng sẽ giúp mình học hỏi được nhiều điều bổ ích, cũng như tưới tẩm tâm hồn mình được trẻ trung hơn. Người nào sống luôn lo âu khắc khoải, tính toán, phiền muộn nhiều, thì các Nơron thần kinh sẽ chết rất mau nên sẽ bị lão hóa, nhiều bệnh tật, đôi khi chết bất đắc kỳ tử cũng nên. Do đó người học Phật việc chính yếu là phải thường xuyên cảnh tỉnh tự sửa mình, với những tâm lý tham lam, sân hận, si mê phải hóa giải dần dần, càng nhiều càng tốt, tu làm sao để có được chánh kiến, để nhìn nhận sự vật một cách chân chánh làm phát triển định tâm, tạo sự cân bằng tâm tư khi phải đối diện với cuộc sống. Thông thường người đời thường bị chao đảo theo hoàn cảnh môi trường xung quanh, bị trói buộc bởi hình danh sắc tướng của sắc đẹp, tiền tài danh vọng… nên khổ đau nhiều. Người tu cũng là một con người nên bị ảnh hưởng khá nhiều, người thật tu thật học, có trí tuệ quán chiếu mới thật sự thoát ra chúng được. Khi biết rằng chúng ta là người xuất gia tu hành, phải có một chí nguyện hướng thượng, tâm vượt lên trên sự ham muốn thường tình của thế gian mới mong có được một đời sống phạm hạnh làm nơi quy ngưỡng cho mọi người. Chặng đường tu hành cũng chông gai thử thách lắm, là một quá trình đấu tranh trường kỳ giữa tâm và sự cám dỗ hấp dẫn của bao nhiêu chuyện đời, mà đều khó nhất đối với một Tu Sĩ đang sục sôi nguồn sống trẻ trung, tâm sinh lý đang ở thời kỳ sung mãn nhất, trong lòng sẽ cảm thấy cô đơn hoang vắng, thiếu thốn tình cảm nên dễ bị tình ái làm lung lạc. Bản chất sắc đẹp hay tình ái vốn nó không phải là xấu xa, đó là món quà hiến tặng cho con người, nhưng con người luôn có lòng tham muốn vị kỷ, chấp thủ, thương yêu mà không hiểu biết thì làm sao không bị vướng mắc và chỉ gây đau khổ cho người mình yêu mà thôi. Phật dạy thương yêu mà hiểu biết chính là lòng từ bi, thương người nhưng không phải vì lòng ái nhiễm, theo sự tham muốn dục vọng của mình, thì thứ tình thương ấy chính là nhựa sống cho mầm tâm mình phát triển xanh tươi, tình yêu phải là bao la hiến tặng cho người mà không vụ lợi, dựa trên chất liệu của tình thương theo lời phật dạy. “Tình thương bao la và bình đẳng”.

Nếu bị sắc đẹp làm dao động tư tưởng là do chúng ta thiếu trí tuệ chứ không phải đổ lỗ cho ai hết, không nên biện bạch mọi chuyện, nào là do hoàn cảnh đưa đẩy, nào là do sự cám dỗ tác động của đối phương, do hết duyên với Phật Pháp… nói chung là dùng đủ mọi lý lẽ để che đậy, chạy lỗi cho mình, không dám thừa nhận sự thật là do chính bản thân mình, cũng giống như người lợp nhà mà không kín thì sẽ bị nước mưa thấm làm dột nhà làm điều tất nhiên.

Như vậy tu hay không tu, hạnh phúc hay khổ đau là do ở nơi ta, còn cảnh xung quanh chẳng qua là thử thách trở duyên trên đường tu hành. Nếu chúng ta là kẻ thật tu, thì dù có gặp người con gái xinh đẹp mỹ miều kia, ta vẫn an nhiên vì lúc ấy ta có trí tuệ để phán xét sự vô thường, không bền chắc.

“Rồi một ngày kia, hương sắc tàn

Tuổi đời chôn lấp bụi trần gian

Tới lui mấy độ quan san ấy

Thầm gởi cho đời một tiếng than”

Khi biết dùng trí tuệ suy xét như thế thì lòng tham dục của chúng ta sẽ dứt, mà thay vào đó là tình thương yêu nhân loại thân thiết, không còn có sự phân biệt của ta, của người, mà chỉ là tình thương bình đẳng trong nhà phật, nó thì dễ như thế, chứ mấy ai thoát được lưới tình. Do vậy, chúng ta là kẻ thật tâm tu hành cần phải nổ lực chuyên tâm thiền quán,lâu ngày mới dứt được sắc ái của trần gian, không phải một ngày một bữa mà thành công được, nói đòi hỏi tính kiên nhẫn, kiên chí lâu dài của chính bản thân ta, không ai có thể giúp được nếu chúng ta không thật lòng tu hành. Người tu muốn tâm được an lạc thì lòng phải giữ vững niềm tin với phật pháp, phát bồ đề tâm với tấm lòng luôn hướng về thiện pháp, lòng đầy nhiệt huyết chuyên tâm tu hành, nương tựa vào chúng tăng huynh đệ, trong mỗi việc làm của mình dù lớn dù nhỏ cũng phải làm theo tinh thần tự nguyện, tự giác, không gò ép bởi ai,nên đã vào chùa thì phải tu hành đàng hoàng,không được lơi lõng buông thả, mà phải tự mình khắc kỷ, thường xuyên tự nhắc nhỡ mình, sống và làm việc phải đặt lợi ích của mọi người lên trước tiên, sẽ tìm thấy niềm vui thật sự trong lòng. Niềm vui, niềm phấn khởi nơi cửa thiền chính là pháp lạc để tưới tẩm tâm hồn của hành giả. Là nguồn hạnh phúc vô tận mà ta sẽ cảm nhận được nhờ sự thật tập thiền quán để đạt được trạng thái trầm tĩnh thực tế, để giải quyết những khó khăn của cuộc đời. Hay nói khác hơn là sự thăng bằng chân thật của tâm trí đặt nền tảng trên sự thức tỉnh thì tâm hành giả càng ngày cũng được lớn dần, nguồn vui sẽ luôn hiện hữu quanh ta ngay trong phút giây tu tập hiện tại này.

CHƯƠNG II : PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM TÂM LINH ĐỂ CÓ SUỐI NGUỒN THỰC TẠI

1. Con đường phát triển tâm linh qua pháp môn tu tập tứ niệm xứ :

Pháp môn tứ niệm xứ thắp sáng giáo lý của Thế Tôn giữa cuộc đời này, nhân duyên diệu pháp được tồn tại lâu dài hay không, đều tuỳ thuộc vào sự học hỏi và thực hành Tứ Niệm Xứ , chúng ta hãy lắng nghe lời dạy sau đây của đức Thế Tôn.

“Này Bà La Môn, do bốn niệm xứ không được tu tập, không được làm cho sung mãn sau khi Như Lai nhập diệt nên diệu pháp không tồn tại lâu dài . do bốn niệm xứ được tu tập làm cho sung mãn, này Bà La Môn, sau khi Như Lai nhập diệt Diệu Pháp được tồn tại lâu dài”.

Hai bài thuyết pháp quan trọng nhất Đức Phật đã từng giảng về sự phát triển tâm linh được gọi là : “Satipatthàna – sutta” (số 22 trong Digha – Vikàya hay số 10 của Majjhima – Nikàya) được chia thành bốn phần. Phần đầu nói về thân thể (Kàya) phần thứ hai nói đến những cảm giác cảm thọ của ta (vedanà), phần thứ ba nói về tâm (Citta) và phần thứ tư nói về đạo đức tri thức (pháp – Dhamma). Nói rõ hơn, Tứ Niệm cứ là thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ và pháp niệm xứ.

Thế nào là quán thân nơi thân ?

Sự tu tập quán thân nơi thân được biểu hiện bằng nhiều cách : ngồi kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt và theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra, hơi thở ra, vào. Dài, ngắn thì biết dài, ngắn giữ niệm tỉnh giác hành giả tập biết cảm giác toàn thân. Khi thở vào, thở ra và tập nhiếp cho thân an tịnh khi theo dõi hơi thở vào, ra giữ chánh niệm, tỉnh giác hay quán tánh sanh khởi, tánh đoạn diệt trên thân, giữ thân không chấp thủ, an trú chánh niệm. Như vậy là một hình thức quán thân nơi thân.

Hoặc khi hành giả đi, đứng, nằm, ngồi, làm việc… hành giả biết mình đang đi, đứng, nằm, ngồi… giữa chánh niệm tỉnh giác, không chấp trước vật gì ở đời. Hoặc hành giả quán sát thân mình từ lòng bàn chân đến tóc gồm có 32 thứ sai biệt, biết thân chỉ là chiếc túi bất tịnh, đựng đủ 32 thứ bất tịnh, quán sát sự vô thường sanh diệt diễn ra trong từng sát na trong thân và giữ chánh niệm tỉnh giác, không chấp thủ nhiếp phục tham ưu ở đời. Hoặc quán sự ngắn ngũi của một kiếp người. Thở ra mà không hít vào kể như xong một kiếp người, những tai nạn, bệnh tật… luôn hủy hoại và thần chết luôn rình rập thân phận con người. Hoặc quán thi thể ở ngoài nghĩa địa hay trong lò hỏa thiêu, sau khi chết thân mình ươn sình lên, hôi thúi, dòi đục, tan rã… thành tro bụi. Một người khi ở đời dù là kiều diễm mỹ miều hay giàu sang phú quý cỡ nào đi nữa nhưng rốt rồi chỉ còn đống xương khô, nằm hiu quạnh trong nắm mồ hoang, bị quên lãng theo dòng thời gian dĩ vãng.. quán thân là vô thường, là bất tịnh như vậy,luôn giữ chánh niệm tỉnh giác, nhiếp phục tham luyến, chấp thủ về thân này. Nhưng không có nghĩa là coi thường, huỷ hoại thân này một cách thiếu trí tuệ, mà phải luôn ý thức bảo vệ, rèn luyện thân này cho mạnh khỏe bằng cách phải thường xuyên vận động, ăn, ngủ, làm việc, học hành, tu niệm.v.v… cho điều độ chừng mực, giữ thân mình trong trạng thái cân bằng. Khi có sức khỏe tốt, thân thể tráng kiện thì đầu óc mới minh mẫn để mà tu mà học, mà sống. Biết được thân vô thường ngắn ngũi nên không sống biếng nhác, biết qúy trọng thời gian, sống có ích trong đời sống hiện tại, mĩm cười thanh thản khi tuổi xế chiều, bằng lòng hãnh diện khi nhìn lại cả cuộc đời mình đã qua, đã thực sự sống một đời sống hiền lương có ý nghĩa. khi nhắc đến tên mình mọi người đều thương kính mến mộ…

Thế nào là quán thọ nơi thọ ? Khi ở thân và tâm khởi lên cảm thọ lạc, khổ, hỷ, ưu, xã hay bất khổ, bất lạc thì hành giả biết là có cảm thọ thuộc vật chất hay không thuộc vật chất, là cảm thọ ở trong hay ngoài và giữ chánh niệm tỉnh giác, quán tánh sanh diệt của các cảm thọ mà không khỏi lên niệm chấp trước, không nương tựa bất cứ vật gì trên đời.

Như vậy là sống quán thọ trên thọ

- Thế nào là quán tâm nơi tâm ?

Hành giả theo dõi tâm mình, biết rằng tâm có tham khi tham tâm khởi lên, biết rằng tâm có sân khi tâm sân khởi lên, biết rằng tâm có si khi tâm si khởi lên.. hay là tâm không có tham, không có sân, không có si, biết rằng tâm thiện hay tâm bất thiện, định tỉnh hay đang vọng động v..v… hành giả quán sanh diệt của tâm và giữ chánh niệm tỉnh giác, không chấp thủ một vật gì ở đời. Như vậy là quán tâm nơi tâm.

Thế nào là quán pháp nơi các pháp…?

Hành giả theo dõi năm triền cái để thấy rõ tâm mình đang vướng mắc ở triền cái nào. Hoặc quán tánh sanh diệt của các triền cái. Hoặc quán pháp ở nơi ngũ uẩn (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức) quán năm uẩn tập khởi, năm uẩn đoạn diệt với chánh niệm, tỉnh giác, nhiếp phục, tham ưu, không chấp thủ.

Hoặc quán pháp trên sáu căn, sáu trần do nhân duyên của căn trần kiết sử (tham , sân) khởi, hành giả biết các kiết sử khởi lên trong mình và giữ chánh niệm, tỉnh giác.

Hoặc quán pháp trên bảy giác chi, xem trong thân mình hiện đang có giác chi nào (hoặc đã sanh, hoặc chưa sanh) và giữ chánh niệm tỉnh giác.

Hoặc quán pháp trên Tứ Thánh Đế : Đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là khổ diệt đạo, quán tánh sanh diệt của pháp và giữ chánh niệm tỉnh giác, không chấp trước vật gì ở đời. Như thế là tu tập quán pháp ở nơi các pháp.

Con đường thực nghiệm chính là con đường tu tập để hành giả bước đi ra khỏi phiền não và đi vào các hạnh phúc của thân tâm. Hành giả đi từng bước đi tin tưởng an lạc. Bỏ lại sau lưng những thất vọng buồn khổ, mộng mị và bóng tối của cuộc đời.

Bài kinh niệm xứ diễn tả cách trao dồi tâm linh, nhằm vượt qua ngoài phạm vi trí thức đến mức tự mình thật sự chứng nghiệm đời sống, tự mình khám phá những chứng bệnh phổ cập sâu kính của tâm con người và gia công giải phóng tâm ra khỏi mọi ràng buộc, đạt được trạng thái châu hoàn tối thượng.

Người xuất gia cần phải cố gắng, thành thật và thẳng thắn tự nhìn lại mình, nhìn những cảm giác và những tư tưởng của mình một cách sáng suốt. Theo pháp hành thiền trong Phật giáo, mở rộng tâm trí và tìm tòi quan sát một cách thẳng thắn và điều kiện tất yếu không thể không có. Thiếu yếu tố này, một hành giả sơ cơ sẽ không thể đặt nền tảng vững chắc cho những cơ cấu xây dựng bên trên. Bởi vì thấu hiểu chân lý là vấn đề hoàn toàn cá nhân của mỗi người, mỗi cá nhân phải tự mình tìm hiểu chính mình, tự mình thể nhập thực tại qua con đường thực nghiệm chứ không có sự chỉ dẫn hay giáo huấn nào có thể hoàn toàn giúp ta, mà chỉ là tấm bản đồ hướng dẫn đường đi, muốn đi đến đích cần phải siêng năng cất bước lên đường, thực nghiệm tâm linh, sống hết lòng cho thực tại.

Nhân loại hiện nay vì chưa nhận rõ bóng ảo huyền của lạc thú, còn đang giãy giụa trong lưới đau thương của cuộc đời, còn đang tìm kiếm an lạc, hoài vọng hạnh phúc nên còn điêu linh khổ ải, còn tìm kiếm là còn lý do để phát triển và tồn tại của các tư tưởng hệ. Chừng nào nhân loại tỉnh ngộ quay về với vị thầy tâm linh của chính mình thì chừng đó nhân loại sẽ ngừng ngay vai trò của triết lý khép lại cánh cửa của tư tưởng hệ. Đây cũng là khả năng trực nhận chân ngã. Một khi cánh cửa của vòm trời tâm linh đã hé mở thì tự thân hành giả sẽ trực nhận được con đường dẫn đến hạnh phúc và chân lý sẽ hiển bày, bởi :

“Nó là một con đường dẫn đến sự thực chứng chân lý tối hậu, dẫn đến sự tự do hoàn toàn, hạnh phúc và bình an nhờ sự hoàn thiện về đạo đức, tâm linh và trí thức”

Đúng vậy con đường thực nghiệm tâm linh cũng như những bản đồ chỉ dẫn con đường giác ngộ đến chánh biến tri về thực chất của tâm linh. Nó không có nhãn hiệu, không có hạn định về thời gian, không gian hay chủng tộc. Nó là giáo lý của mọi thời đại, người sống trong giáo pháp phải tự mình chứng nghiệm qua cuộc sống thực tế hàng ngày, khi biết khôn ngoan đối diện với chính mình phát triển theo chiều hướng hiểu biết một cách chân thực. Nếu không có thực nghiệm tâm linh người ta không thể hiểu được mình là ai và không thể giải quyết các vấn đề tâm lý vì sự an tịnh và hạnh phúc trong hiện tại.

2. Hiểu biết như thật là thường xuyên tỉnh giác chánh niệm:

Trong kiếp sống của con người, thật vô cùng ngắn ngũi. Chúng ta và biết bao con người đang sinh ra, lớn lên và chết đi, trong sự sống đã mang mầm hủy diệt, còn cái chết là dấu hiệu của cuộc tái sanh. Đó là quy luật mà chúng ta không ai tránh khỏi. Thời gian đưa chúng ta đến và đi biết bao lần bùi ngùi trong cảnh ly biệt, đừng nhàn rỗi mà tưởng mọi việc đâu đó đã an bài chẳng mất, với sức mạnh của con người từ đó phát sinh. Nếu ta làm được việc gì lợi ích cho đời, thì ta có một sức mạnh phi thường, dù là một việc nhỏ nhất cũng sẽ làm sống lại một năng lực tiềm tàng trong ta, lợi ích ấy sẽ dần dần thấm vào tim ta một sức mạnh hùng hồn. Vì thế ta phải đem chân lý của Đức Như Lai ứng dụng vào trong cuộc sống hiện tại, điều đầu tiên cần phải có là sự hiểu biết Như Thật, để từ đó hướng dẫn tâm mình đi theo hướng ngày càng thánh thiện làm lợi ích cho mình và đem lợi lạc cho người khác bằng chất liệu của tình thương hiểu biết không ngừng, đó chính là suối nguồn của lòng từ bi và trí tuệ trong đạo Phật.

Nếu nhìn vào biển cả thì chúng ta đừng nhìn vào những đợt sống mà hãy nhìn vào đáy nước lặng yên ở trong lòng đại dương bằng đôi mắt bình đẳng… coi tất cả mọi người là anh em ruột thịt của mình, giảm thiểu lòng ganh tỵ hiềm khích, biết bao dung đồng cảm với người, đem chất liệu “tình người” vào cuộc sống, làm lớn dần đời sống đạo đức. Đó là kiếp sống thánh thiện và trong trắng nhất. Người tu, đều quan trọng nhất là không được tự đánh mất niềm tin và lý tưởng của mình, phải tự thăng hoa cho chính mình giữa cuộc đời đầy phong ba bão tố này. Tự thăng hoa mình trong nổ lực hành thâm Phật Pháp. Chúng ta hãy định hướng đời mình bằng sự chánh niệm tỉnh giác trong mọi lúc, mọi nơi. Mỗi cá nhân cần phải hoàn thiện từ phẩm chất đạo đức đến đời sống tâm linh trong thực tế hàng ngày, tức là phải biết tỉnh sáng, lắng sâu, suy nghiệm vạn hữu bằng thái độ nhận thức chánh pháp một cách chân chánh ngay trong lúc mình đang tu tập. Bởi vì mục đích của việc học Phật Pháp là diệt trừ dục vọng, nguyên nhân của khổ đau, đạt đến trí tuệ để chứng nghiệm chân lý. Hơn nữa, đời sống của người Tu Sĩ không những chỉ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển tri thức và tâm linh cho riêng mình, mà còn có thể thiết thực giúp ích cho người khác. Đời sống của một vị Tu Sĩ mẫu mực, biết sống vì hạnh phúc và an lạc cho tha nhân, muốn có được điều đó, người xuất gia không ngừng soi sáng lại tâm mình, một khi tâm thức sáng suốt thì lòng khát dục tự nhiên tan biến và thế vào đó là một nguồn an lạc giải thoát nhiệm mầu ngay đây. Ngoài ra còn phải chế phục năm căn, ngày đêm tinh tấn tu các thiện pháp, tập trung tư tưởng vào một chỗ, không chạy theo các vọng tưởng điên đảo . Tâm ý không buông lung, chẳng những phiền não vô minh thảy điều chấm dứt, mà còn được công đức vô lượng vô biên. Vì vậy chúng ta phải thường xuyên chánh niệm tỉnh giác “Phản quang tự kỷ” từng bước thể nghiệm tâm linh, từng bước đạt được kết quả tức là tự tâm mình buông xã, nhẹ nhàng, thanh thoát, tâm trí lắng yên bằng cách cắt bỏ mọi hệ lụy nghiệp duyên của cuộc đời.

Trong kinh Pháp Hoa đưa ra hình ảnh “gã cùng tử đi lang thang, quen làm những công việc thấp hèn” là chỉ cho những người không bằng lòng với thực tại, vướng trong tham lam, si ái ngập tràn, bị trói buộc bởi những dục vọng thấp hèn nên khổ sở cùng cực, suốt ngày, chỉ làm nô lệ cho dục vọng, tham cái này, thích cái kia , đứng núi này trông núi nọ, vì tâm luôn hướng ngoại nên càng ngày càng lún sâu trong phiền não, triền phược… khi gã cùng tử tìm lại được thân thế của mình thì tự nhiên cảm thấy hạnh phúc vui sướng khôn cùng mà không cần phải cầu mong. Cũng vậy, người Tu Sĩ Phật Giáo biết sống tri túc, không đam mê đời sống hưởng thụ quá mức, không dựa vào sự tín tâm cúng dường của người khác mà sanh tâm ỷ lại, hay dùng tài vật một cách lãng phí, làm như vậy mình lại tổn phước về sau sẽ thọ quả báo khổ đau, mang lông đội sừng để trả nợ áo cơm… nên chư Phật, chư Tổ răng dạy hàng hậu học phải ngày đêm thúc liễm thân tâm, tinh tấn tu hành để quán xét tâm mình, tạo nơi nương tựa quy kính đối với người khác bằng cách tập sống đời sống xã ly, khôn ngoan quay về với đời sống tâm linh trong sáng cao thượng mà người xuất gia đã từng ấp ủ. Muốn có được đời sống an lạc, ngày một thăng hoa, phụ thuộc vào thái độ sống chân thật của mình, sống chân thật không dối mình, lừa người thì tâm sẽ bình an thanh thản.

Ta muốn đi xa hơn trên con đường tâm linh, ta phải tỉnh giác chánh niệm nơi tâm ý mình. Nguyên nhân của tinh thần dao động là bẩm tánh của tâm trạng bất an, người có tâm trạng bất an vì lúc nào cũng lo lắng đủ thứ, để trấn an, họ phải bám víu vào của cải vật chất, lấy cạnh tranh làm phương pháp xử thế, nuôi dưỡng lòng ganh tỵ hiềm khích, làm cho tâm trí luôn rối loạn sợ hãy lo âu, tô điểm cái ưu thế bên ngoài nhưng vô tình lại làm mục rã trống rỗng bên trong. Hãy buông bỏ, để cho những tư tưởng trôi qua, trong mọi oai nghi, đi, đứng, nằm, ngồi.. hãy chú tâm vào thiện ý nghiệp, những suy tư tạo thiện nghiệp, tức nhiên sẽ có hạnh phúc. Một khi ta đã nhận thức đúng như vậy tâm sẽ chuyên cần tự nó hướng về thiện nghiệp, trau dồi đức hạnh và tích lũy phước đức, tư tưởng hiền lành sẽ làm cho tâm nhẹ nhàng yên vui, suy tư hung dữ sẽ thiêu đốt tâm can và đưa đến đau khổ, với lòng thèm khát dục vọng sẽ xô đẩy ta vào ảo tưởng, và khốn đốn vô cùng, sống như một cái xác không hồn,càng buông lung ra bên ngoài càng cần đến những cảm giác và đòi hỏi những khoái cảm nên tâm luôn không yên thì không thể tìm tòi khám phá gì sâu rộng được. Nhưng ta không thể nói chỉ im lặng suông là tâm tịnh, tâm yên tịnh không phải do chịu đựng hay chối bỏ mà có được. Tâm yên tịnh chỉ có được khi có mặt của sự hiểu biết cái thực tại thì chúng ta cần phải có trực nhận mau lẹ, vì cái đương niệm không hề ngưng đứng bao giờ, mà luôn trôi chảy một cách nhanh chóng như dòng nước lũ. Do đó, chúng ta cần phải tỉnh giác chánh niệm để trực nhận giây phút hiện tại vô cùng quý giá này. Thiền sư Viên chiếu cũng từng dạy đệ tử ngài rằng:

“Bất thận thủy bào kình mãn khứ

Nhất tao sa diệt hối hà chi?”

Có nghĩa là không biết giữ gìn để nước tràn khỏi chậu, như kẻ không cẩn thận để trượt ngã, rồi sau ăn năn có ích gì. Ý Ngài dạy là phải tỉnh giác chánh niệm. Mất tỉnh giác chánh niệm thì tham sân nổi lên, ta lãng quên mình để tâm ý tham sân trào ra hành động, khác gì nước trào khỏi chậu, sao hốt vào được nữa? chỉ bằng tỉnh giác chánh niệm mới thật sự sống có ý nghĩa. Trong kinh văn pali Đức Phật cũng đưa ra một ví dụ : “Một tội nhân đem ra xử chém, nhưng vua cho một ân huệ là để khỏi tội chết phải bưng một chén dầu đầy đi qua đám hát xiếc ven đường, qua phố phường đông vui. Nếu dầu đổ tràn ra chén thì bị chém đầu, trái lại thì được tha tội… Trong giời phút mà cái chết đang chờ trước mắt, thì tội nhân đem hết sức lực tập trung định ý để cứu lấy mạng sống với khả năng có thể làm được. Do đó, Y phải trụ tâm định ý hoàn toàn vào bước đi cẩn thận, tránh người, giao lưu qua lại, tránh xa sự vui nhộn của đám xiếc, đi qua cho mau. Khi đó tội nhân quên đi mọi vật xung quanh mới mong cứu được mình trong giờ phút nguy kịch, nhờ y định tâm chú ý giữ gìn chén dầu với hết năng lực tinh thần nên dầu không đổ ra ngoài và cuối cùng được tha mạng”

Sự tu tập tỉnh giác chánh niệm cũng vậy, không cho tâm rỉ lậu rớt ra theo sự xô dạt kích động của ngũ dục ái nhiễm. Người có tỉnh giác chánh niệm luôn luôn thể hiện những cử chỉ từ tốn, nói năng khoan hòa điềm đạm tạo sự an lành bình yên khi tiếp xúc với người khác, tiềm ẩn một nguồn năng lực thực sự dễ cảm hóa, tạo sự tôn kính đối với mọi người xung quanh. Sống trong chánh niệm, ta không còn nghèo nàn nữa, bởi vì nhờ thực tập sống trong chánh niệm, ta càng lúc càng giàu về phương diện an lạc, hiểu biết và thương yêu. Lúc đó thì dù người mà ta đang đối diện là một người nghèo nàn về nội tâm, người ấy cũng không làm ta nghèo thêm được. Vì đang thực sự sống trong chánh niệm, ta có thể nhìn và khám phá được một cách sâu sắc về con người mà ta đang đối diện, và ta có thể giúp đỡ người ấy một cách dễ dàng, có hiệu lực hơn, Ở người tỉnh giác chánh niệm, khi giao tiếp nói năng, làm bất cứ việc gì luôn luôn âm thầm có một sự tỉnh thức quay về, một sự tự chủ rất cao.

Họ luôn làm chủ tâm mình, khiến những điều ngang trái phức tạp chướng ngại sẽ được giải quyết một cách êm đẹp. Trong cuộc sống thường gặp những cảnh mất mác đau thương, những sự vinh nhục thịnh suy luôn thử thách ý chí con người đang nằm trong hoàn cảnh đó. Khi gặp phải, người tu hành cần phải điềm tỉnh hơn ai hết, lúc nào cũng thể hiện được một oai lực nội tại người tỉnh thức là người biết nhìn lại mình, đứng trụ vững trên bờ tâm linh, biết rõ tâm lý mình, dùng trí tuệ quán chiếu cuộc đời, sống không vong thân, làm chủ được mình trong mọi tình huống, dù trong hoàn cảnh nào sống cũng bình an, chính nhờ có chánh niệm, tỉnh giác, mà ta an trú trong hiện pháp lìa bỏ những ngọn lửa phiền não đốt cháy. Hiện pháp này vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, tự mình chứng đạt, tự mình có thể giác tri.

3. Nếp sống lành mạnh đưa đến hạnh phúc

Đắm mình trong nền văn minh vật chất và những kỹ thuật tân tiến của khoa học hiện đại, con người đã quay cuồn không ngơi nghỉ trong quỹ đạo của bạo lực chiến tranh và lao tâm vì lo âu tính toán để vun đắp lòng tham vô đáy của mình, muốn tất cả thuộc về mình, muốn mình sung sướng mà lại làm khổ người khác, tạo nên sự xung đột không ngừng giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, người mạnh thường lấn kẻ yếu, tạo nên bao cảnh hiềm khích, khủng bố lẫn nhau xảy ra hàng ngày trên thế giới nguyên nhân bắt nguồn từ sự xung đột trong tâm tư của mỗi con người.Giáo lý đạo Phật dạy cho con người sống lành mạnh ,không có bóng dáng của bạo hành,nhằm hướng dẫn nhân loại bước lên đỉnh cao của sự thánh thiện qua việc tự tịnh hóa thân tâm của mỗi người. Nhưng chính con người đã tự áp đặt cho mình biết bao trọng trách và phiền não chừng như bất tận. Do vậy mà tâm thức đã bị xáo trộn và căn thẳng đến cùng tột sự xáo trộn và căn thẳng này chính là mối đe dọa lớn lao, là nguy cơ khốc liệt dẫn đến tình trạng ô nhiễm đời sống tâm linh, lấy bạo lực chiến tranh gây đau thương chết chóc cho biết bao sinh linh, bao vây bởi lòng hận thù chất ngất, sống trong cảnh lo âu sợ hãi. Đức Phật dạy :

“ Hận thù diệt hận thù

Đời này không thể có

Từ bi diệt hận thù

Là định luật ngàn thu”

(Kinh Pháp cú)

Không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, trình độ nhận thức, người đông phương hay người Tây Phương, điều là một con người như nhau, tất cả chúng ta đều cần đến một toa thuốc diệu dụng có thể song phương trị lành bá bệnh của thân và tâm, như câu ngạn ngữ “Một tâm hồn lành mạnh trên một thân thể tráng kiện”

Toa thuốc được thích hợp với mọi người, mọi thời đại không gì khác hơn là phương pháp thiền định mà Đức Bổn Sư Thích Ca đã tuyên dạy cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ. Vì : “công phu thiền định đi thẳng vào nguồn an lạc hạnh phúc ngay trong hiện tại và ngay đây. Sống với từng hơi thở hạnh phúc, từ cận định hành giả cảm nhận an lạc, tu từ sơ thềin đến tứ thiền, hay đến vô sở hữu xứ, hành giả đều được tiếp nhận nguồn hạnh phúc vô biên, với thực tướng, với tâm giải thoát và tuệ giải thoát” Thiền định là nếp sống lành mạnh không những đáp ứng được những nhu cầu căn bản và cấp thiết của đời tâm sinh lý của con người, mà còn là pháp môn tối thượng, để phá vở vô minh, khai thông trí tuệ, và đưa dẫn conngười, đạt đến đỉnh cao của nếp sống hạnh phúc, an lạc. Đây chính là chìa khóa vạn năng dùng để tra vào ổ khóa tâm linh của mọi người.

Hãy lặng lẽ tiến bước giữa cảnh ồn ào nhộn nhịp và luôn luôn ghi nhớ rằng có trạng thái an lạc trong im lặng. Chúng ta phải rời bỏ cuộc sống phồn hoa đô hội, và nương nơi chốn tòng lâm để sống tỉnh lặng, nương nơi tăng thân mà tiến tu đạo nghiệp. Đó là hình thức nhàn lạc của kiếp sinh tồn. Trong nếp sống ẩn dật cô đơn chúng ta sẽ chứng nghiệm giá trị của những giờ phút trầm lặng chúng ta mở một cuộc hành trình vào trở lại bên trong, khi ẩn dật vào im lặng ta sẽ tuyệt đối đơn độc để nhìn lại chính mình, nhìn vào thực chất của tự thân, thấy chúng ta đúng như sự thật chúng ta vậy. Và chừng đó ta có thể học được phương pháp vượt qua những khuyết điểm và những giới hạn của cuộc sống bình thường con người ngày nay mưu tìm hạnh phúc ở bên ngoài mình, thay vì ở trong. Họ hướng ngoại, nhưng hạnh phúc không tuỳ thuộc nơi thế gian bên ngoài. Nền văn minh hiện đại không phải là cái nhìn thuần túy tốt đẹp. Khoa học kỹ thuật dường như hứa hẹn có thể biến đổi thế gian này thành một thiên đàng. Từ mọi hướng, người ta không ngừng nghiên cứu phát minh để làm cho thế gian này tốt đẹp hơn. Các nhà khoa học hết lòng nhiệt thành, quyết chí đeo đuổi những phương pháp thí nghiệm nỗ lực của con người nhằm vén lên bức màn bí mật của thiên hà vũ trụ. Những khám phá và những phương tiện truyền thông, phương tiện đi lại v.v. đã từng bước đạt được những thành quả ly kỳ. Tất cả những cải thiện trên đã mang lại nhiều lợi ích khả quan trong cuộc sống sinh hoạt của con người nhưng chỉ liên quan đến phần vật chất hữu hạn. Điều quan trọng hơn là con người chưa thể kiểm soát được cái tâm của mình, vẫn chưa trở nên tốt hơn, dầu đã tạo được bao nhiêu tiến bộ khoa học. Bên trong luồng trôi chảy của tâm và cơ thể vật chất, có những kỳ diệu mà các nhà khoa học có thể còn phải bỏ ra nhiều năm nữa để khám phá. Người ta cố tìm giải pháp cho những vấn đề khác nhau của mình, nhưng thất bại vì phương pháp và đường lối giải quyết sai lạc. Họ tưởng rằng tất cả vấn đề đều có thể giải quyết từ bên ngoài. Nhưng phần lớn nó nằm bên trong con người, không phải ở ngoại cảnh. Vấn đề phát xuất từ thế gian bên trong và như vậy, giải pháp cũng phải tìm ở bên trong.

Chúng ta có nghe những người hằng chú trọng đến nạn ô nhiễm lên tiếng chống lại ô nhiễm không gian, ô nhiễm sông ngòi, biển cả, ô nhiễm đất đai.v.v.. Nhưng còn tâm ô nhiễm của chúng ta thì sao ? Chúng ta có quan tâm đến việc bảo vệ và gội rửa tâm của mình không. Đức Phật dạy : “Đã từ lâu, tâm của con người bị tham, sân, si làm ô nhiễm. Bợn nhơ tinh thần làm cho tâm của chúng sanh ô nhiễm. Gội rữa tâm làm cho chúng sanh trong sạch”.

Lối sống của chúng ta là một tiến trình tích cực thanh lọc thân, khẩu, ý. Đó là sự trau dồi, tự phát triển và tự thanh lọc, nhằm tự mình chứng ngộ. Điểm chính yếu là thành quả thâu đạt chớ không phải ở lối tranh luận về triết học hay trừu tượng hợp lý. Do đó, cần phải thực hành hàng ngày, hành thiện mỗi ngày một ít, chứa nhóm huân tập nhân lành dần dần, như những giọt nước nhỏ lâu ngày cũng đầy lu. Con người đẹp nhất là người có cái tâm biết sống có đạo đức, làm chủ được tâm mình trước những thèm muốn về dục vọng là điều khó nhất, là việc làm vinh hiển nhất.

Đức Phật dạy : “Ví có người chinh phục cả hàng triệu người ở chiến trường, được coi là bậc anh hùng vẻ vang đáng được tôn trọng, tuy vậy, chiến thắng vẽ vang nhất là tự chinh phục mình”.

Điều này có nghĩa Đức Phật dạy chúng ta hãy tự làm chủ lấy mình, làm chủ những cảm xúc, những xúc động, những ưa thích và ghét bỏ .v.v..

Lời của thi hào Milton chỉ là âm vang của những lời phật dạy.

“Tự điều khiển lấy mình là nắm quyền bá chủ vương quốc vĩ đại nhất mà con người có thể ước vọng, và cùng thế ấy, để cho những khát vọng điều khiển mình là làm nô lệ tệ hại nhất”.

Thật vậy, tự kiểm soát mình là chìa khóa để mở cửa vào nhà hạnh phúc. Đó là năng lực nằm phía sau mọi thành tựu thật sự. Hành động mà thiếu kiểm soát ắt không thể đưa đến mục tiêu nhất định nào mà chỉ rơi vào hố sâu vực thẳm của tội lỗi. Chỉ vì con người không kiểm soát được phần tâm linh mình, nên bị đủ thứ xung động phát sinh trong tâm khảm và nếu những xung đột ấy cần phải được kiểm soát, cần phải được loại trừ, con người phải kiềm chế, hóa giải những tham vọng và những thú vui mang hình bóng của sự hưởng thụ riêng tư, cố gắng sống đời tự chủ, tự giác sẽ có được một đời sống tự do và trong sạch.

Nếp sống lành mạnh là chìa khóa mở đường dẫn đến tự chủ, đến trạng thái thoải mái đem lại hạnh phúc trong lúc ta đang còn sống và mãi mãi ngàn sau. Trong tất cả năng lực thì tâm lực có công hiệu hùng mạnh nhất. Chính tâm lực tự nó là năng lực. Để thấu đạt bản chất thật sự của đời sống ta phải khảo sát tường tận, đào sâu vào những hóc hẻm sâu kính bên trong nội tâm. Điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách nhìn trở lại sâu vào bên trong mình, một công trình khảo sát đặc nền tảng trên sự thực nghiệm và chứng ngộ tâm linh.

Bằng mọi cách, Đức Phật đã đánh thức tâm tư các hàng Tỳ kheo, luôn luôn định tỉnh và nhận chân giá trị đích thực của chính mình. Phương pháp huấn thị của Ngài bằng tinh thần giáo lý hoàn toàn đem lại hương vị bình an và hạnh phúc. Một niềm bình an trong sáng, thuần khiết không bị chi phối phiền lụy bởi những ràng buộc cuộc đời.

Trong chốn rừng sâu nơi chống quê nghèo hay ở chốn phồn vinh đô thị bản chất của một Tỳ Kheokhông bị dánh mất,vì rằng họ đã thể nhận được tinh thần bất biến tuỳ duyên,ở ngay đây và ngay bây giờ…

“Niết bàn là có thực, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tuệ mình giác hiểu”.

Đây chính là ý nghĩa tuyệt đối hạnh phúc, vượt lên trên tất cả mọi trạng thái hạnh phúc tầm thường hữu hạn của cuộc đời. Hạnh phúc được thể hiện trọn vẹn dưới cái nhìn của người tu sĩ : “ Cuộc đời là vô thường, khổ, vô ngã”.

Vì nhận diện chính bản chất cuộc đời là một dòng thời gian trôi chảy miên viễn không chủ thể, bất thường này, nên họ đã tích cực đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, ly ác pháp, bất thiện và thể nhập chơn pháp giới, một niềm hỷ lạc tuyệt vời hiện hữu. Nơi đây, họ đã quăng gánh nặng khổ đau, ưu, sầu, bi, não và họ thong dong tự tại thỏng tay vào chợ, thành tựu cảnh giới an lạc vô biên, sự hạnh phúc này chính là kết quả của một đời sống viễn ly, phụng hành tất cả thiện và trừ diệt tất cả bất thiện, ly dục, tịch tịnh, xa rời nhiễm tâm.

Chân trời an lạc và hạnh phúc tuyệt đối mở ra cho nhân loại, một niềm tin sống theo tinh thần giáo pháp của chư phật qua con đường thực nghiệm tâm linh. Đây là nếp sống sinh động mà con người thực sự thực hiện sẽ thâu hoạch kết quả. Tự thân của sự đi tìm hạnh phúc này là một ý nghĩa linh động mà không phải là của ngôn ngữ, lý luận hay không tưởng hư vô. Kinh nghiệm thực tại, hạnh phúc của thái độ, chấp thủ là hạnh phúc của một cái gì mong manh dễ vỡ và chứa đựng vị đắng bên trong, còn hương vị của ý nghĩa xã ly là hương vị chân thật của sự bình an và giải thoát. Vì vậy cho đến một thời điểm nào đó trong sự sống của con người hay trên bước đường sanh tử, con người phải có thái độ chọn lựa giữa hai lãnh vực hạnh phúc và khổ đau, tự ngã và vô ngã, tham ái và đoạn ái, chấp thủ và đoạn thủ để nhận chân ý nghĩa trên con đường ly tham giải thoát.

CHƯƠNG III : THÁI ĐỘ SỐNG CỦA NGƯỜI TU SĨ KHI TIẾP XÚC VỚI CUỘC ĐỜI

A – NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐÁNH MẤT HẠNH PHÚC THỰC TẠI :

a. Tự tha hóa bản thân

Vì không giữ được phạm hạnh, họ chỉ biết đeo đuổi theo những thói hư tật xấu, giam mình trong tù ngục của tiền tài, sắc đẹp, danh vọng… v.v của thế gian, tự mình trói mình trong những suy nghĩ tầm thường không có lối thoát, suốt ngày chỉ lo những chuyện vớ vẫn không đâu vào đâu cả, tâm trạng lúc nào cũng buồn rầu thơ thẩn như cái xác không hồn, càng cố gắng cọ quậy trong bùn nhơ của tham vọng càng bị lún sâu và mất mạng lúc nào không biết. Chúng ta đừng cố chấp cho rằng tiền tài, sắc đẹp.. là xấu, vì bản chất tự nhiên của nó là sự sống của cuộc đời, tốt hay xấu là do thái độ sống của mỗi người. Bản thân mỗi người sống mà không có giới hạn, không biết rõ vị trí của mình thì làm sao có một tương lai tươi sáng, mà chỉ gây phiền nhiễu cho người, làm mọi người khinh khi xa lánh. Khi bị xa lánh họ cảm thấy chán nãn, trở nên bi quan yếm thế, mất lòng tin nơi tự thân. Đã không có lòng tin nên không có hướng đi và lập trường dứt khoát, buông thả đời mình theo cuộc đời, nhiễm dẫn những thói hư tật xấu, sống bất cần, không chịu nghe theo lời dạy bảo khuyên ngăn của người khác. Do không chịu lắng nghe nên họ tạo nhiều ác nghiệp theo định kiến cố chấp hẹp hòi của mình, sẵn sàng làm đủ mọi thứ mà không ngần ngại, dù đó là những chuyện phi pháp đi nữa. Thường tỏ thái độ khó chịu chê bai phỉ báng, mọi người, cô lập mình, khinh thường tất cả… có thể nói cuộc sống của họ sẽ không còn có ý nghĩa gì nữa, thân bại danh liệt đáng bị mọi ngượi khiển trách.

b. Mất niềm tin trong cuộc sống :

Vì không ý thức rằng người tu sĩ sống phải nương tựa vào sự tín tâm của người, người đời phải làm lụng vất vả lo đủ thứ cho gia đình, lại chắt chiu dành dụm cúng dường cho quý Thầy, quý Cô để quý Thầy quý Cô an tâm tu học, làm lợi lạc cho cuộc đời, cho đạo pháp… Đặt trọn niềm tin vào người tu hành. Thầy Tổ lúc nào cũng trông mong rằng đệ tử mình sau này sẽ là một người hữu dụng cho Đạo Pháp. Chứ đâu có ngờ niềm tin và kỳ vọng ấy đã không thành hiện thực. Làm cho thầy tổ bị tiếng tăm, thị phi do họ gây ra.

Đối với gia đình họ đã đánh mất sự tin tưởng của cha mẹ, anh chị em dành cho. Gia đình cứ ngỡ là mình có người con đi tu là phước đức nào ngờ đâu phước đâu không thấy mà chỉ thấy họa trước mắt, bị mọi người xóm giềng coi thường chê bai, làm cho gia đình buồn khổ thế mới biết “sinh con bất hiếu phải mang tiếng đời”

Đối với Phật tử gần xa, sống không ra người tu, nữa đời nữa đạo, đã đánh mất niềm tin của người, vì họ mà hàng Phật tử cũng trở nên mất niềm tin với đạo. Người ta thường nói “Một con sâu làm sầu nồi canh” quả không sai. Trừ những vị phật tử thấu hiểu đạo lý, chúng ta không bàn đến,họ hiểu được chân lý của đạo. Thì những chuyện thị phi bên ngoài không làm họ bận tâm. Chứ phần nhiều phật tử mới vào chùa chưa am hiểu giáo lý thì sinh tâm thối thất, chán nãn, bỏ chùa. Vì họ nghĩ rằng ở ngoài đời những chuyện thị phi khổ lụy ở đời có là chuyện bình thường. Còn trong chùa là nơi thanh tịnh, người tu phải có đạo hạnh khác người, khi gặp những cảnh tha hóa của một cá nhân, vị thầy nào, họ cảm thấy mất niềm tin đối với Tam Bảo, sinh tâm chê bai mất lòng kính trọng nơi Chúng Tăng. Làm mất chánh kiến của người, làm người tu tổn phước. Tội ấy rất nặng. Không xứng với một người sống trong phật môn, làm tổn thương uy danh của Đạo Pháp.

B. THÁI ĐỘ TỰ GIÁC TỰ NGUYỆN CỦA NGƯỜI TU SĨ

a. Tự ý thức bản thân :

Chúng ta đều biết do không quản lý chặt chẽ, cũng như tinh thần tự giác không cao, mới đưa đến những tệ nạn trong chốn thiền môn. Để cảnh tỉnh hàng tu sĩ sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn, cách duy nhất là chúng ta phải có biện pháp cụ thể. Tuy nói biện pháp, nhưng chủ yếu do ý thức của mỗi người là chính, còn cách thức chẳng qua là cách giải quyết phần ngọn, nhằm khắc phục hậu quả của những sự cố đã xảy ra, Đạo Phật chủ trương diệt trừ mầm móng những hành động bất thiện ngay trong tâm thức của mỗi người, là quá trình tịnh hóa thân tâm để mỗi ngày một tốt đẹp hơn.

Tự ý thức bản thân là một biện pháp hữu hiệu dễ thực hiện và lợi ích vô cùng lớn lao. Muốn nói lên bản thân của mỗi người phải tự kiểm điểm với chính mình, và sau đó đưa ra phương hướng để giải quyết. Chúng ta mỗi người mỗi suy nghĩ, mỗi hoạt động khác nhau, không ai giống ai cả, nên tinh thần ý thức cũng phải tự mỗi người vươn lên. Chúng ta phải kiểm điểm xem chúng ta đã làm gì trong một ngày một đêm, có bao nhiêu hành động, ý nghĩ, lời nói thiện – ác ? Một việc làm thiện là được mọi người công nhận, đem lại niềm vui cho người xung quanh, lương tâm của chúng ta không bị cắn rức, ăn năn sau khi đã làm, là việc làm đúng với chân lý, vì chân lý dựa vào sự thật mà rút ra. Muốn quán chiếu được tư tưởng của mình, cách duy nhất không gì ngoài Giới, Định, Tuệ.

Trước hết chúng ta cần phải giữ gìn giới hạnh oai nghi của chính mình đã lãnh thọ, phải một lòng vâng giữ không cho tái phạm. Vì giới luật là bức tường để ngăn ngừa mọi tội ác đã phát sinh. Nhờ việc ác đã dứt, thời phước lành phát sinh, tạo cho thân của chúng ta được khinh an.

Giới luật có công năng rất lớn trong quá trình tu hành giải thoát của chúng ta. Do đó người xuất gia không thể coi thường được, dù đó chỉ là một việc nhỏ. Sở dĩ chúng ta không thành công lớn, dễ thất bại là do có thái độ khinh thường các điều nhỏ nhặt và cho rằng việc nhỏ không đáng ngại. Vì mọi việc lớn trên đời này đều phát sinh từ việc nhỏ mà ra. Cổ nhân từng dạy “Đừng xem thường giọt nước nhỏ, vì lâu ngày sẽ đầy lu lớn”. Hay ca dao ta có câu :” Nước chảy ào ào không tày lổ mậu”. Cho nên, chúng ta muốn thành công không thể khinh thường việc nhỏ được. Vả lại, chúng ta là kẻ xuất gia khi lãnh thọ giới pháp. Chúng ta nên tìm hiểu ý nghĩa và nội dung của từng giới mà chúng ta đã lãnh thọ. Khi tìm hiểu chúng ta mới thấu đáo được mỗi giới luật có công hiệu khác nhau. Nhờ công hiệu đó mà chúng ta đối trịỉ được với nghịch cảnh xung quanh. Nghịch cảnh chướng duyên, là điều thử thách trên con đường tu hành của chúng ta. Do am hiểu tường tận được giới luật mà chúng ta vận dụng vào cuộc sống để chế ngự các ác pháp xuất hiện.

Vì giới luật là khắc tinh của tội ác, chỉ có giới luật mới khống chế được tội lỗi. Chúng ta thấy ở nơi nào cũng vậy, hễ tội ác phát sinh nhiều thì nơi ấy có nhiều luật lệ. Trong chùa thì có giới luật của Thiền môn còn xã hội thì có Pháp luật của xã hội. Tuy khác nhau về mặt nội dung, nhưng hình thức của nó đều đồng nhất về tư tưởng là ngăn cản tội ác, tệ nạn mà con người tạo ra. Cho nên, muốn cho bản thân của chúng ta không phạm lỗi lầm, không đi vào con đường tội lỗi đọa lạc, điều duy nhất là phải nghiêm trì giới luật mà thiền môn đã quy định.

Chúng ta cẩn trọng giữ gìn giới luật giống như tướng soái xông pha ngoài chiến trận. Ra ngoài chiến trận vị tướng phải hết sức đề phòng cẩn mật không dám lơ là, nếu lơ là một chút thì sẽ bị mất mạng như chơi, biết bao người bị thất bại là do chủ quan khinh địch, không phòng ngừa dẫn đến kết quả bi thảm. Cũng vậy, người xuất gia muốn trở thành “Chúng Trung Tôn” được trời, người kính trọng thì phải siêng năng tuân thủ giới luật. Mọi công đức lành đều phát sinh từ người biết giữ giới, cũng như mọi mầm non tốt tươi phát sinh từ đất màu mỡ. Do vậy ý thức bản thân không gì ngoài ý thức giới luật mà chúng ta đã lãnh thọ, cố gắng vâng giữ phép tắc, oai nghi của một vị Tỳ Kheo. Nếu ta không hiểu mà giữ giới, đó là nguy cơ của thoái hóa, là nguyên nhân cứng ngắt trong việc thực thi giới luật và dễ bị ngộ nhận đưa đến lệch lạc trong khi giữ giới. Chẳng khác gì chúng ta ăn một cái gì đó mà không cảm nhận mùi vị và chất bổ dưỡng của nó, chỉ biết ngồi nhai một cách máy móc, dễ đưa đến ngộ độc trong thức ăn. Bởi thế trong khi có dạy.

“Tu mà không học là tu mù

Học mà không tu là đảy đựng sách”

Để muốn nhắn nhủ chúng ta phải biết cách vận dụng giới luật một cách linh động tùy nơi, tùy lúc, tùy hoàn cảnh cho đúng chánh pháp, chứ đừng cố chấp khư khư vâng giữ mà không biết mình đang vâng giữ cái gì, vâng giữ mà không cảm thấy an lạc, tự do, tự tại là đã đi lệch tinh thần của giới luật mất rồi. Hay là chúng ta biết được nội quy pháp tắc của giới luật, mà lại cố tình làm ngơ, chỉ thể hiện cái vẻ bề ngoài “giả trang thiền tướng”. Trước mặt người thì tỏ ra đạo mạo, trang nghiêm, tô điểm cái giả danh để gạt gẫm người đời, mà họ đâu biết rằng dối lòng mình, qua mặt chư thiên hộ pháp đâu có được, mỗi người đã sẵn có một cuốn phim để ghi nhận tất cả những việc làm thiện ác của riêng mình, không sai một ly. Trong duy thức học Phật Giáo gọi là Tàng thức, nơi chứa đựng. Điều này được minh chứng ngay trong cuộc sống hiện tại này đây. Ngay trong thái độ sống của mỗi con người đã hình thành một tính cách, một hoàn cảnh, một lối sống khác nhau.

Kế đến chúng ta cần phải thực tập thiền định, nhờ thiền định mà ta có thể làm chủ được chính mình, Thiền định không có nghĩa là ngồi mới là thiền. Mà là chúng ta thực tập ngay trong đời sống hằng ngày, bất cứ làm việc gì phải tỉnh sáng, suy xét xem việc đó có hợp với chân lý hay không, khi có mặt của thiền định thì mọi loạn động tự nhiên chấm dứt, nhờ nơi giới mà phát sinh định. Hể người nào có định lực vững vàn thì mọi chuyện trở nên đơn giản, thông suốt, mọi trở ngại chướng duyên đều được giải quyết một cách tự nhiên, êm đẹp. Định lực có công năng lớn lao như thế, sao chúng ta không thực tập để tiêu diệt nguồn gốc khổ đau đem đến an lạc hạnh phúc.

Nói thì dễ chứ khi thực tập thì đâu phải đơn giản “Thuyết dị hành nan”. Những bậc vĩ nhân xuất thế, các Ngài y vào thiền định mà giác ngộ giải thoát, còn chúng ta không thực hành được như các vị ấy, thì ít nhất chúng ta phải rèn luyện tư tưởng của mình. Nghĩa là làm sao cho tư tưởng của chúng ta tập trung vào một chỗ nhất định không cho nó chạy lăn xăn. Chúng ta chỉ cần nhiếp niệm đưa tâm vào một chỗ là đủ “Tâm như con vượn chuyền cây, ý như con ngựa dong ruỗi suốt ngày” khi đưa tâm niệm chuyên nhất một chỗ là quá trình thành công của người tu. Lúc ấy tâm niệm hướng về phật pháp, không làm điều ác, ác nghiệp dứt thì ta đâu có bị ngoại cảnh chi phối. Chỉ cần mỗi ngày trước khi đi ngủ tự bản thân ngồi nhiếp niệm kiểm định xem trong một ngày ta đã làm được bao điều tốt, bao nhiêu điều quấy xấu, đã giúp gì cho ai vui hay đã làm khổ ai… Dùng trí tuệ quan sát như thế để gạn lọc những gì mà chúng ta cảm thấy sai quấy, tự mình ăn năn sám hối, nguyện xin sửa đổi. Nguyện sống sao để cho mình vui, người vui… ngày ngày thực hành như thế, chắc chắn đời tu của ta một ngày một thăng tiến hơn, vui vẻ hơn.

Vả lại, khi chúng ta quán xét những điều phải, điều quấy của bản thân thì chính lúc ấy ta đã thực hành được điều lành. Vì khi việc ác chấm dứt, tức việc thiện tự phát sinh và phát triển một cách mạnh mẽ nhờ vào công năng gạn lọc trong tâm của chính chúng ta. Mọi chuyện trên thế gian này không có việc gì mà chúng ta không làm được, trừ khi chúng ta làm ngơ biếng lười không chịu làm thôi, thế mới biết : “Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện” . Nhưng việc thực tập này chúng ta phải bắt đầu từ bây giờ, trong lúc mình còn sức lực mạnh khỏe tráng kiện, phải hạ thủ công phu chớ để dần dà ngày qua ngày vì thời gian trôi qua không bao giờ trở lại, mạng sống thì vô thường sống nay chết mai “đừng đợi tuổi già mới học đạo. Mồ hoang có lắm kẻ đầu xanh”

Hơn nữa, nếu để mọi chuyện lâu ngày ắt sanh có biến, người ta thường nói “Đêm dài lắm mộng”. Muốn trừ tội lỗi chúng ta không thể chậm trễ được, vì tội lỗi nó bộc phát, lây lan rất nhanh. Ở đời việc thiện khó làm, chứ việc ác không học nhưng làm rất dễ. Dẫu biết rằng sống hiền lương đạo đức thì được mọi người kính trọng thương yêu nhưng có mấy người làm được? Mỗi người có một nghiệp duyên khác nhau, mỗi hoàn cảnh khác nhau nên hình thành một thái độ sống khác nhau, nên ta phải biết bao dung rộng lượng tha thứ cho người khác thay vì chỉ trích ghét bỏ người. Đem lòng từ bi mà hướng dẫn người ác quay về với đường lành. Vì mỗi chúng ta điều là con người nên có Phật tánh giống nhau, khi áng mây đen tan biến thì trăng sáng tự hiển lộ.

Cổ nhân có dạy: “Mọi việc chúng ta phải bắt đầu từ ngày hôm nay. Đừng bảo sau ngày hôm nay còn có ngày mai, nên biết sau ngày mai có ngày mai nữa. Nếu ngày ngày lần lửa như thế, sẽ không bao giờ thành công được”.

Người không ngoan là người ra tay trước “Thiên hạ thủ vi cường”. Nếu không tội lỗi sẽ làm rối con đường tu hành của chúng ta, để tội lỗi phát sinh quá nhiều thì càng ngày càng lún sâu hơn, trở thành căn bệnh nan y hết thuốc chữa.

Sở dĩ , nhiều vị không kham nổi đời tu hành cũng do không chịu chú tâm ngay từ lúc đầu, xem thường giải đãi nên dẫn đến kết quả là bị trói buộc, thối thất tâm bồ đề. Nên người tu phải dè dặt siêng năng ngay từ lúc đầu, phải nổ lực quyết chí lo tu. Tu phải thành tâm chớ đừng nữa đạo, nữa đời, thân thì tu mà tâm chẳng tu, sẽ uổng phí cuộc đời mình, mắc nợ người , tức là đã phản bội lại chí nguyện của mình đó là điều tệ hại nhất.

Trong biện pháp khắc phục ý thức bản thân, tuệ đóng vai trò quan trọng giúp chúng ta đi đúng con đường chánh pháp không sợ bị sai lầm. Tuệ là sự thấy biết do công năng tu tập của Giới và Định mà phát sinh. Trong khi nói : “nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ” Nghĩa là nhờ vào giữ giới mà phát sinh thiền định, do công năng của thiền định mà trí tuệ hiển hiện. Vậy tuệ là sự phát quang do công năng huân tu mà có, do sự thấu tình đạt lý phát sinh. Trí tuệ ấy là vô ngại biện tài, người tu hành cần phải có trí tuệ này, vì có nó chúng ta mới phân biệt phải trái của cuộc đời. Nếu chúng ta muốn thành công trên lãnh vực giải thoát, cách duy nhất là phải có trí tuệ. Trí tuệ ví như ngọn đèn soi sáng đưa đường chỉ lối cho chúng ta thoát khỏi đêm dài tăm tối, vì không có trí tuệ chúng ta đã đi lang thang bao kiếp sống, đã tạo ra biết bao khổ đau cho tự thân và cho mọi người, không nhận chân được sanh tử khổ đau triền miên. Đức phật dạy :

“Đường dài cho kẻ mệt

Đêm dài cho kẻ thức

Luân hồi cho kẻ ngu

Không biết chân diệu pháp”

Vậy chúng ta mới biết trên chặng đường mai một của kiếp tu hành là do chúng ta chưa có trí tuệ, vì chưa có trí tuệ nên bị thối thất tâm bồ đề của mình, đụng đâu cũng bị vướng lụy. Để trưởng dưỡng trên con đường đạo hạnh, chúng ta phải nỗ lực rèn luyện trí tuệ cho thật sắc bén để cắt bỏ tất cả những cảnh cám dỗ đầy ma mị của cuộc đời. Chính vì lẽ đó nên ở trong chốn thiền môn lấy trí tuệ làm sự nghiệp cho việc tu hành cũng như hành đạo.

“Lấy từ bi làm phương châm

Lấy trí tuệ làm sự nghiệp”

Mặt khác, trong quá trình ý thức bản thân, chúng ta đã biết vận dụng Giới Định, Tuệ để hóa giải những tội lỗi do bản thân tạo ra. Tội lỗi ấy xuất phát từ lòng tham, sân, si, của mỗi người là mầm móng gây ra khổ đau, tạo cho thân tâm ta bị dày vò không yên.

Con người phần nhiều do lòng tham chi phối : nào là than tiền, tham sắc, tham danh, tham ăn, tham ngủ.v..v.. cũng do nhu cầu của cá nhân mà sinh ra thích xem đủ thứ phim ảnh, thích nghe đủ loại nhạc, thích đi rong chơi qua ngày tháng, thích tụ hội nói chuyện phiến thế gian, thích làm mọi chuyện thế tục … có thể nói tham thì tham đủ loại, còn thích thì thích đủ thứ, không thiếu chuyện gì. Ngày nay một số người tu hành quên đi hoài bảo của mình là xuất gia mong được giác ngộ giải thoát, suốt ngày làm nô lệ cho dục vọng thấp hèn của mình, chưa hiểu rõ chữ tu nghĩa là sửa đổi tâm tánh, hành vi, lời nói của mình, nên sống cho qua ngày đoạn tháng, tâm thì đầy tràn tham, sân, si, hành động thô tháo, lời nói thô lỗ còn tệ hơn cả người thế gian. Những người xuất gia cần phải chú ý xem đến những người đời, khi họ biết sống có đạo đức, cộng thêm cách nhận thức chân chánh thì họ sẽ sống thông thoáng vô cùng.

Người thế gian vì mưu sinh của cuộc sống có tham lam là chuyện thường tình nhưng người xuất gia tu hành mà còn tham lam thì thật đáng phê phán, không xứng đáng là đệ tử của Phật. Đó chính là những kẻ sâu mọt trong Phật Giáo.

Ở phần tự ý thức cá nhân này, kêu gọi tinh thần tự giác cảnh tỉnh là chính, mà tự giác cảnh tỉnh phải dựa trên nền tảng của Giới, Định, Tuệ. Mỗi người phải luôn suy nghĩ như thế này : “Chúng ta đi tu không chỉ cho bản thân mà còn hóa độ giúp ích cho người khác nữa”. Do vậy, tự khắc phục không cho mọi ham thích xâm nhập quấy rối lòng ta. Vì khi chúng ta biết cảnh tỉnh như thế thì chúng ta dùng trí tuệ để xét suy mọi ham thích, do đâu mà ra để tìm cách tiêu diệt nó. Nếu tham tiền thì chúng ta nên suy nghĩ tiền tài là vật bên ngoài, người xuất gia cơm ăn, áo mặc vừa đủ đâu cần phải bận tâm làm gì ? việc chính yếu là lo tu tập để trau dồi đạo hạnh của mình. Tuy nhiên trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, đang có xu hướng phát triển về mặt vật chất khoa học mà chúng ta là kẻ tu hành cần phải hoằng dương phật pháp đến mọi người, do nhu cầu học tập, nhu cần phương tiện đi lại nên phải cần đến phần vật chất tiền bạc, nhưng khi thọ dụng phải nghĩ đến công lao của người cúng dường nên thọ dụng cảm thấy vừa đủ là được, chứ đừng lợi dụng vào những nhu cầu đó cá nhân mà phung phí một cách không chính đáng sẽ bị tổn phước, mắc nợ của người. Lại có nhiều người do rằng : “ Đủ thì biết bao nhiêu cho đủ, vả lại không có làm sao biết đủ được”. Thật ra, lời nói ấy không sai, nhưng là người học Phật phải biết suy xét, phước duyên của mỗi người mỗi khác. Yù báo cũng như chánh báo khác nhau nên quả báo làm sao giống nhau được ? Chẳng hạn nhiều người tu hành từ nhỏ đến lớn không lo toan một thứ gì nhưng cuộc đời họ vẫn sung túc đầy đủ, chứ có nhiều người chạy ngược chạy xuôi rốt rồi chẳng ra sao cả, mãi thiếu thốn cực khổ.v..v Do vậy mỗi người phải tự tạo phước đức cho mình thì quả lành tự nhiên nó đến, đó là lẽ thường tình có chi đâu mà phải bận tâm ? Ở đây chỉ phê phán những người chỉ biết lợi dụng tín tâm, ân huệ của người khác mà vun đắp lòng ham muốn của riêng mình không biết chán, đã có lại cầu có thêm làm cho mọi người mất tín tâm đối với Tam Bảo. Người tu chân chánh dù có thiếu trước hụt sau, vật chất có thiêu thiếu một chút không sao, bởi vì họ biết bằng lòng với hoàn cảnh, an nhiên trong nếp sống đạo hạnh thật là đáng kính.

Đối với tâm sinh lý của người tu đang đi trên đường tu, dễ bị cô đơn, thiếu thốn tình cảm, ít có cơ hội tiếp xúc với người khác phái cùng trang lứa như người đời. Nên cảm thấy trống vắng dễ bị sắc đẹp làm dao động. Do chúng ta ít tu nên thiếu trí tuệ chứ không đỗ lỗi cho ai hết, do chúng ta không biết làm chủ bản thân mình chứ không phải là do duyên nghiệp gì hết. Tu hay không tu là do ta, còn cảnh duyên là điều thử thách. Nếu chúng là kẻ thật tu dù có gặp người đẹp sắc nước hương trời đi nữa, vẫn an nhiên không sao khuấy động được lòng ta. Vì lúc ấy chúng ta biết rõ mình là người tu, dùng trí tuệ để quán xét, sắc đẹp kia tuy là mỹ miều nhưng sự thật không bền lâu, thân thể mơn mởn ấy cũng sẽ đến lúc già yếu run rẩy. Đời người như cây đèn, dầu sẽ cạn dần và đến ngày tàn lụi. Đức Phật đã cho thấy điều ấy khi nhìn nét đẹp kiều diễm của nàng công chúa Da Du Đà La. Nếu như Hoàng tử Tất Đa Đa tham đắm mến tiếc, không quyết tâm rời xa công chúa, thì đâu thể xuất gia học đạo và trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngày nay được trời người tôn kính? Người tu hành vượt qua ngưỡng cửa của tình ái cũng gian nan lắm, chứ đâu phải chơi, Vì đa số người tu sống với nội tâm nhiều hơn, nên khi gặp những chuyện không vui, hay bị bệnh không có ai chăm sóc, chỉ cần có một bàn tay mềm mại hay một cử chỉ dịu dàng ân cần chăm sóc…

Sẽ phát sinh lòng biết ơn, lâu ngày phát triển thành tình cảm, rồi yêu thương lúc nào không hay. Người tu cũng là một con người bằng xương bằng thịt, con tim cũng biết rung động như bao người khác. Nhưng khác ở chỗ là người tu còn có lý tưởng tu hành của mình để hóa giải, xã ly những tâm niệm sắc ái. Bằng cách thương yêu mà hiểu biết, tình yêu ấy không mang dáng dấp của tình yêu cá nhân, vị kỷ, hẹp hòi. Đó chính là lòng từ bi trong đạo Phật. Đức Phật dạy : “Các thầy tỳ kheo hãy luôn xem những người nữ lớn tuổi hơn mình là mẹ, là chị, còn nhỏ hơn mình là em gái của mình, đem tình thương nâng dỡ giúp họ quay về đường thánh thiện” Mặt khác phải thường xuyên tự nhủ rằng “Mình là người xuất, gia, nguyện một lòng đi trên đường đạo, mong được giác ngộ giải thoát, làm lợi lạc cho chúng sanh… sao còn nghĩ ngợi vướng lụy chuyện tư tình?” vả lại người xuất gia tu hành do mình tự giác tự nguyện, nên phải cố gắng hết sức giữ cho đời tu mình được trong sạch. Nếu thấy duyên mình không kham với cảnh thiền môn, thì cứ công khai ra đời sống như bao nhiêu người khác. Ở đời mà biết sống hiền lương, sống có đạo đức, làm một công dân tốt thì đáng quý trọng biết bao? Không nên mang hình tướng người tu mà lòng thường nghĩ đến những chuyện sai quấy, hành động thô lỗ, dối mình gạt người, không xứng đáng là người đệ tử Phật, đáng bị chê trách.

Tu sĩ trẻ ngày nay sống xa Thầy Tổ, thầy Bổn Sư có quá nhiều đệ tử hay bận phật sự, chuyện chùa chiền nên ít có thời gian để quan tâm để đệ tử mình, dẫn đến tình trạng “tự lo đời mình”, người mà ý thức thì không nói đến, còn một số sống mất phương hướng, sống bất cần, hụt hẫng mất dần điểm tựa, sanh ra chán nãn, lê lếch lười biếng sống cho qua ngày tháng, không có mục đích gì cả.. ? Sống như thế uổng một kiếp người, nữa đời, nữa đạo, mắc nợ của đàn Na tín thí… làm mất chánh tín người khác, làm ảnh hưởng xấu đến đạo pháp, tội này sâu nặng vô cùng. Vì rằng “tội phá kiến nặng hơn tội phá giới, nó ảnh hưởng đến nhiều người khác nữa…”

Trọng tách của người tu là hoằng dương chánh pháp, đem phật pháp làm lợi ích cho người cho đời nên phải ý thức về danh lợi, nếu có danh lợi thì chúng ta phải có suy nghĩ thế này: “Danh lợi ấy có ảnh hưởng gì đến đời sống tu hành của chúng ta hay không? Danh lợi mà không phù hợp với con đường tu hành thì nên dứt bỏ, chẳng cần. Xem như “Cát bụi trên hè phố” Đừng bao giờ có tư tưởng lấy công danh làm sự nghiệp cho chính mình, vì việc ấy để cho người đời làm. Người đời nếu có ý thức người ta còn xem nhẹ, còn ta là người tu mà còn ham hố làm gì ? Dành thời gian cho việc tu học. Người tu nếu có danh phận nhờ vào uy tín của mình thì vận dụng danh tiếng ấy mà làm lợi ích cho phật pháp, thì chánh danh ấy sẽ được người đời thương kính muôn đời, vì “chánh danh” ấy phát xuất từ đời sống phạm hạnh của bậc tu hành, thái độ người học phật một lòng hướng về phật đạo, lấy việc giải thoát sanh tử làm trọng, chí nguyện cao hiển, không nên mong cầu danh lợi cho riêng mình. Siêng năng trang bị cho mình một kiến thức phật học hoàn chỉnh, mục đích học phật không phải vì địa vị bằng cấp, danh vọng… đừng bao giờ có tư tưởng mình phải làm cái này, cái nọ, ông này bà nọ mà học để có vốn kiến thức phật học ứng dụng và đời sống tu tập, học để hiểu mình, hiểu người, nâng đời sống tâm linh mỗi ngày mỗi hạnh phúc an lạc hơn. Nên người tu cần phải có lý tưởng, một lập trường vững vàn do chính mình hoạch định, xuất phát từ thái độ nhận thức của mỗi người, thái độ chính là nền móng của một tòa nhà, là vốn liếng của sự nghiệp tu học cả đời của người xuất gia. Từ thái độ đúng đắn sẽ xác định một lý tưởng cao đẹp, lý tưởng là một điều cần thiết mà chúng ta không thể không có. Chúng ta cảm nhận cuộc đời đáng sống, không bi quan và mọi công việc làm điều hữu ích, khi có lý tưởng rõ ràng chính đáng và cao cả. Ví như một hiệp sĩ khi lên đường với hành trang, tuy nhẹ nhàng mà chứa đựng một sứ mệnh lớn lao, với những kinh nghiệm sắc bén tuyệt vời. Lý tưởng của ta lúc ấy chẳng khác nào là thanh kiếm báu giúp chàng hiệp sĩ vẫy vùng chiến thắng được mọi trở ngại nghịch thù.

C – PHẦN KẾT LUẬN

Sự tu học của chúng ta là nhận chân lại được bản lai diện mục của chính mình đã bị đánh mất trong sự vô minh hắc ám, và hoàn thành cuộc sống của mình ngay trong kiếp sống hiện tại này.

Thật ra, trong tâm thức người nào cũng có hạt giống an lạc giải thoát, nếu mỗi ngày biết chăm sóc tưới tẩm thì hạt giống ấy sẽ mỗi ngày mỗi phát triển, đến một ngày nào đó hạt giống sẽ biến thành cây và hình thành quả ngọt là điều hiển nhiên. Cũng vậy người tu khi làm việc gì phải có sự quay trở lại, đều tỉnh thức tự tâm của mình. Sống cho ra sống, chứ không phải sống một cách hời hợt, mọi hành động của ta đều xuất phát từ một suối nguồn trong veo, luôn luôn sống động như mây trăng ngang trời cứ mãi bay, như dòng suối muôn thuở, nước cứ chảy mãi không ngừng nghỉ, không một chút chần chờ suy niệm mà luôn ứng xử tùy duyên một cách tự nhiên, phi nhiên. Phải nắm lấy hơi thở để tiếp xúc với chính mình, tiếp xúc với những gì đang xảy ra trong con người và vạn vật xung quanh hiểu mình, hiểu người, dung hòa tốt đẹp trong đời sống hàng ngày.

Muốn đời mình được an lạc hạnh phúc thì khi gặp cảnh vui tâm đừng quá vui, khi gặp cảnh buồn, tâm đừng bi lụy chán nãn, cần phải thân chứng tự thân vượt qua những ràng buộc khổ đau, thấy cái được trong cái được, thấy cái được trong cái không được, luôn định tỉnh an vui trong cuộc sống, sống trong cuộc đời nhưng không mê đời, không bị đời làm cho ô nhiễm.

Như mái nhà khéo lợp

Mưa không thể thấm vào

Cũng vậy, tâm chuyên tu

Tham dục không xâm nhập

(Pháp cú 14)

Mục đích của chúng ta là giải thoát cho bản thân và giải thoát cho mọi người, làm cho cuộc đời ngày một tốt đẹp hơn. Đó là chí nguyện cao cả mà người xuất gia cần phải có, khi đã ý thức được sứ mạng của mình, nên chúng ta phải nổ lực tranh đua cùng thọ mạng, quyết chí hạ thủ công phu, chuyên lòng lo học tập kinh điển, xa rời các uế trược của trần gian. Một lòng gìn giữ oai nghi phẩm cách của mình làm nơi quy kính cho mọi người, tự rào luyện ý chí, không sống buông lung lười biếng, sống chân thật với chính mình và chân thật với mọi người, thâm hiểu phật pháp sống thích nghi với xã hội, luôn luôn làm đẹp trong các mối quan hệ giữa con người với con người với nhau, giữa con người với cảnh qung môi trường sống. Có như vậy đời sống tu hành của chúng ta mới thực sự có ý nghĩa, suối nguồn hạnh phúc sẽ chảy mãi, tắm mát cuộc đời ta ngay chính bây giờ và mãi ngàn sau. Ngay giờ này, khi còn khỏe mạnh phải lo chăm sóc đời sống tâm linh, một nội tâm thanh tịnh an lạc tuyệt đối, tỉnh giác nội tâm chính là thăng hoa nhân phẩm, không gì quý hơn là thực tập thiền quán, vì con đường thiền quán sẽ cung cấp cho chúng ta những phương pháp thực tiễn cho sự sống thánh thiện, sự nuôi dưỡng những phương pháp thực tiễn cho sự sống thánh thiện, sự nuôi dưỡng những phương pháp cân bằng bên trong và sự hài hòa bên ngoài.

Thực nghiệm tâm linh là tâm điểm của Phật Giáo và mọi sự chuyển hóa nội tại, là sự hài hòa tâm trí và tri thức của con người. Con người thực nghiệm tâm linh chính là con đường để hiểu biết, phát triển sự hiểu biết của bản chất một cách như thật. Nếu không có thực nghiệm tâm linh, người ta sẽ không hiểu mình là ai và không thể giải quyết các vấn đề tâm lý vì sự an tịnh và hạnh phúc trong hiện tại. Suối nguồn thực tại chính là dòng nước mát, tưới tẩm hạt giống Phật trong lòng của mỗi người. Phải siêng năng cần mẫn chăm sóc hạt giống của mình ngày một phát triển xanh tươi, để một ngày kia cây của mình là cây quý, quả của mình là quả Ngọt…

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trung Bộ Kinh I & II HT. Thích Minh Châu dịch – VNCPHVN ấn hành 1993.

2. Tương Ưng Bộ Kinh V.HT Thích Minh Châu dịch – VNCPHVN ấn hành 1993.

3. Kinh Pháp cú – HT. Thích Minh Châu dịch– VNCPHVN ấn hành 1987.

4. Phật Học Khái Luận. TT.Thích Chơn Thiện. GHPGVN Ấn Hành 1993

5. Thiền Đạo Tu Tập – Chang Chen Chi – XB năm 1972

6. Con đường thoát khổ – W Rahula Ni Sư Trí Hải dịch

7. Đạo Phật đi vào cuộc đời HT Nhất Hạnh ,lá bối xb năm 1973

8. Tìm vào thực tại .TT.Thích Chơn thiện VNCPHVN XB 1997

9. An Lạc Từng Bước Chân, HT. Thích Nhất Hạnh – Lá Bối

10. Sống Chung An Lạc – HT Thích Nhất Hạnh – lá Bối 1999

11. Bước tới thảnh thơi – HT thích nhất Hạnh – Nhà xuất bản Tôn Giáo

12. Theo dấu chân xưa – TT.Thích Minh Thông.

13. Mở con mắt thiền. Nghệ thuật sống dịch giả ; Thích Hạnh Chánh, NXB TP.HCM 2002.

14. Những bài giảng về hoằng pháp Trụ Trì : HT thích trí Quảng, NXB tôn giáo, 2002.

15. Luật Học Đại Cương : HT Thánh Nghiêm

16. Giáo dục Phật Giáo TT Thích Chơn Thiện, XB 1997

Nguồn: dentutraitim.com

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 529)
Ngày xưa, do chịu ảnh hưởng nền giáo dục của Nho giáo nên người Việt Nam ta rất coi trọng tư tưởng tôn Sư trọng đạo, cho dù vị Thầy ấy là thầy dạy nghề hay là thầy dạy chữ thì vị trí của người Thầy cũng rất được tôn kính chỉ đứng thứ hai sau nhà Vua, trên cả Cha Mẹ theo tinh thần Quân-Sư-Phụ.
08/04/2013(Xem: 591)
Để đi vào nghiên cứu lĩnh vực ngôn ngữ của một dân tộc nào đó, nhất là để chuyển ngữ từ ngôn ngữ của dân tộc này sang ngôn ngữ của một dân tộc khác thì nhất thiết không thể thiếu được văn phạm, hoặc ngữ pháp. Bởi lẽ, nó là công cụ sử dụng, là cốt yếu để nối kết, kết cấu tạo thành câu cú, ngữ nghĩa trong ngôn ngữ cũng như trong văn chương.
08/04/2013(Xem: 610)
Sau lễ Tốt nghiệp, những “cánh y vàng” của Tăng Ni sinh khóa III -những người nhân danh “Như Lai sứ giả” lần lượt sẽ tung bay trên khắp mọi miền đất nước (cũng có thể là ở ngoài nước). Dĩ nhiên, tuỳ theo nhân duyên và hạnh nguyện, sẽ có những người ở những vai trò, vị trí khác nhau.
08/04/2013(Xem: 869)
Lịch sử loài người là một quá trình chuyển hoá liên tục, không ngừng nghỉ. Sự chuyển hoá xảy ra trên nhiều bình diện của cuộc sống và nó gắn liền với môi trường xung quanh tạo thành một hợp thể tác động hai chiều thúc đẩy loài người cứ thế phát triển mãi không ngừng.
08/04/2013(Xem: 787)
Con người là gì? Ðó là câu hỏi không đơn giản mà bao đời nay các nhà triết học và khoa học khác nhau ra công tìm lời giải đáp và đã gây ra không ít sự tranh cãi vì bất đồng quan điểm. Sách triết học Mác-Lê nin có ghi:’Câu trả lời chỉ là chơn thật khi con người có khả năng bước ra khỏi bản thân mình với tư cách là hệ thống trong quá trình vận động sanh thành’
08/04/2013(Xem: 504)
Từ thuở xa xưa cho đến bây giờ khi trí thức của con người đã được nẩy nở, đứng trước vũ trụ bao la, người ta bắt đầu bàng hoàng đánh dấu hỏi: Vũ trụ là gì ? Nhân sinh do đâu mà có ? Và chung kết của nhân sinh như thế nào ? Đó là những vấn đề đã làm cho tất cả các tôn giáo, các thánh nhân, hiền triết từ xưa đến nay, phải dùng hết tâm tư để tìm tòi nghiên cứu
08/04/2013(Xem: 410)
Đàng Ngoài-Đàng Trong, một giai đoạn bi ai của lịch sử dân tộc Việt Nam. Sự phân chia đất nước kéo dài trên 170 năm với 7 lần hưng binh đánh nhau khiến cho muôn dân đồ thán. Cục diện huynh đệ tương tàn của hai nhà Trịnh -Nguyễn chưa kết thúc thì tiếp đến cuộc chiến tranh nông dân Tây Sơn lại nổi lên. Tiếng binh reo, ngựa hý, gươm khua không bao giờ ngớt trên đất mẹ Việt Nam thân yêu trong suốt 200 năm.
08/04/2013(Xem: 738)
Nền đạo học phương đông đã dâng tặng cho nhân loại một kho tàng tri thức vô tận về vũ trụ và nhân sinh. Trong mấy ngàn năm qua, nền đạo học này đã và đang cống hiến cho nhân loại nhiều bài học vô giá về đạo đức, về triết lý nhân sinh ...
08/04/2013(Xem: 3559)
Giải thích tổng quát về Kinh Hoa Nghiêm theo hệ Kinh tạng Đại Thừa: Đức Phật ra đời vì “hạnh phúc an lạc của chư Thiên và loài người” như lời Ngài đã từng tuyên bố. Thế nên sự sống mà Đức Phật ra đời thật vô cùng quan trọng, đó là chân lý, là Pháp âm được vang lên khắp vũ trụ sơn hà. “Pháp âm bất tuyệt” tất cả tiếng chim hót, dế ngân, sóng vỗ, thảo mộc, khai hoa, thông reo suối chảy, đến tiếng đá rơi ... đều là pháp, không nơi đâu không phải là pháp.
08/04/2013(Xem: 2224)
Trong quyển Nhập Bồ Tát hạnh có nói: “Muốn diệt trừ vô lượng khổ đau trong ba cỏi, và trừ những nỗi bất an cho hữu tình, muốn hưởng được trăm thứ khoái lạc, thì đừng bao giờ xả bỏ Tâm Bồ Đề. Những hữu tình đang bị trói buộc trong ngục sinh tử mà phát Tâm Bồ Đề chốc lác cũng được gọi là con của Phật, đáng được trời người kính lễ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567