Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tự tại giữa có và không

27/08/201818:20(Xem: 3666)
Tự tại giữa có và không




hoa_sen (23)

TỰ TẠI GIỮA CÓ VÀ KHÔNG


Làm sao có thể sống hạnh phúc trong thế giời đầy ngã chấp như hiện nay? Để được như vậy, chúng ta bớt chấp. Khi chúng ta bớt chấp,  chúng ta bới  phiền muộn, bớt đau khổ. Khi chúng ta không còn chấp, thì chúng ta được tự tại, giải thoát, lúc đó niết bàn ‘hiện ra’. Vấn đề không chấp thủ rất phức tạp từ thô đến vi tế và thậm chí đến mức độ vi tế thì không từ ngữ nào có thể diễn đạt được. Vì thế, bài luận chỉ tập trung việc không chấp thủ ở mức độ tương đối bằng cách làm sáng tỏ luận cứ tự tại giữa ‘có’ và ‘không’ trong thế giới hiện hữu này.

KHÔNG QUẢ

 

Tâm người đời buồn vui theo cảnh

Lúc tươi cười lúc thì buồn lo

Quả thiện đến lòng như trẩy hội

Rồi lại phiền khi nghiệp xấu ra

Không hề biết khi hồn đã thiện

Việc gì đến không còn vấn vương!

 

Nhân duyên viết bài này là do một thân hữu tâm tình với anh em tình thân: “Phật Giáo Nguyên Thủy cho rằng vì ngũ uẩn giai không, tức là không có gì, nên chết là hết, và không có thần thánh, ma quỷ gì cả…”

Chúng ta đang sống trong thế giới hiện hữu vật chất nên Tâm Tịnh xin trò chuyện với anh em vấn đề này trong thế giới hiện tại để mọi người đều có thể cảm nhận được.

Thật ra ‘có’ và ‘không’ cả hai đều không: không ở đây là không chấp thủ cái ‘có’ và không chấp thủ cái ‘không’ để mình ít phiền não và được hạnh phúc hơn. Nói một cách khác, ngũ uẩn giai không ở đây có nghĩa là không chấp chặt cái ‘không’ và cũng chấp chặt cái ‘có’. Từ đó chúng ta hết khổ, thong dong tự tại trong cuộc sống đầy biến động như hiện nay. Để dễ hiểu, Tâm Tịnh xin đưa ra hai câu chuyện sau:

Câu chuyện thứ nhất: chấp ‘có’ và không chấp ‘có’, tức là tự tại và thong dong với cái ‘có’ (có một cô gái Huế xinh đẹp):

Có hai anh chàng nghèo xứ Quảng ra Huế thi đại học và mang theo hoài bảo: cố gắng thi đỗ đại học và sau khi tốt nghiệp có một việc làm tốt để giúp gia đình thoát cảnh nghèo khổ. Thế nhưng, một trong hai sĩ tử bị choáng ngợp trước vẻ đẹp kiều diễm và giọng nói êm diệu của cô gái Huế như hai câu thơ sau

Học trọ xứ Quảng ra thi

Thấy cô gái Huế chân đi không đành

Anh chàng bị cái đẹp ‘một hai nghiêng nước nghiêng thành’ hớp hồn nên đêm về tương tư không ngủ được. Sáng hôm sau mệt mỏi thức dậy đi thi, nhưng vì quá mệt do tương tư nên anh chàng không làm bài được. Kết quả anh chàng bị rớt đại học. Lòng trở nên ê chề, u sầu, xanh xao, gầy mòn khiến mọi người trong gia đình và người thân lo âu.  Do chấp thủ sắc đẹp cô gái Huế hay nói một cách khác do chạy theo cái đẹp của cô gái Huế mà đã gây ra phiền não cho bản thân và gia đình.

Trong khi đó,  anh chàng sĩ tử kia thấy cô gái Huế bình thương như bao cô gái khác:

Học trò xứ Quảng ra thi

Thấy cô gái Huế như bao gái Làng

(trong nghĩa làng xóm)

Anh ta không bị cái đẹp ‘chim sa cá lặn’ của cô gái Huế làm cho điên đảo mà chỉ lo chú tâm vào mục tiêu hiện tại. Kết quả anh chàng làm bài tốt và đỗ vào Đại Học như mong ước, mang lại niềm vui cho mình, cho gia đình và người thân. Có thể nói, anh chàng sĩ tử thứ hai thong dong tự tại với cái có (cô gái huế), không bị sắc đẹp của cô gái Huế tác động vào tâm thức, không làm tâm chao động, vì thế được an vui, hạnh phúc không như anh chàng sĩ tử thứ nhất bi đau khổ do tâm bị chao động vì chấp thủ. Nói một cách khác, do thong dong tự tại với cái có (có cô gái Huế như bao gái Làng), nên không bị chao động. Ở chừng mực nào đó có thể ví lúc này ngũ uẩn thật sự giai không đối với sĩ tử thứ hai. (không chấp Sắc (cô gái Huế), thì Thọ, Tưởng, Hành và Thức đều rơi rụng, tức là ngũ uẩn giai không: “do chấp thủ không quấy rối vi ấy, vị ấy tự chứng niết bàn”(Trung Bộ Kinh: Majjhima Nikaya 140. Kinh Giới phân biệt -Dhàtuvibhanga sutta).

 

Câu chuyện thứ hai: Tự tại thong dong với cái không

Vào năm 2016, Anh Tâm hẹn gặp nhân viên của một công ty A mang dàn vi tính tặng cho Lớp Học Tình Thương Ông Bà Tư tại Suối Tiên vào lúc 8 sáng Chủ Nhật. Anh Tâm đến đó sớm hơn một chút như đã hẹn nhưng đến 9 giờ vẫn chưa thấy nhân viên của công ty A đến. Anh Tâm gọi điện cho ông chủ và được ông chủ hứa sẽ cho nhân viên chở dàn vi tính đến ngay. Anh Tâm không quên nhắc nhở: “Hiền ơi, nhớ bảo nhân viên đừng chạy xe vội và chạy xe cẩn thận nhé Hiền.”  Thế mà, đến 12.30 pm, nhân viên mới xuất hiện cùng với dàn vi tính dưới cái nắng nóng oi bức lúc giữa trưa của Sài Gòn. Anh Tâm không hề quan tâm đến việc đến trễ của nhân viên mà lại rất hoan hỷ và thật sự biết ơn nhân viên này vì không quản đường xa và thời tiết oi bức đã chở một dàn vi tính (5 máy) từ Quận Bình Thạch đến tận Suối Tiên.

Nhân viên không đến trong vòng bốn tiếng rưỡi ‘đợi chờ’ , nhưng Anh Tâm không bực mình mà ngược lại còn quan tâm đến sự an toàn và lòng đầy biết ơn khi nhân viên mang theo dàn vi tính dưới cái nắng oi bức giữa trưa của Sài Gòn vào tháng Bảy. Trong khoảng thời gian ấy, Anh Tâm để tâm ‘hiện tại lạc trú’ vào dự án nghiên cứu Lớp Học Tình Thương ở Sài Gòn. Rồi thi thoảng, Anh Tâm an trú tâm vào cảnh vật xung quanh, một kiệt tác sống động trải ra trước mắt. Ôi đẹp quá, lòng đầy hân hoan. Tất cả đều được Anh Tâm nhận biết rất rõ ràng. An trú tâm vào đối tượng nhưng không chấp chặt vào đó, để lòng thanh thản với tất cả. Trong trường hợp này, Anh Tâm đã tự tại thong dong với cái việc nhân viên KHÔNG đến (trong khoảng thời gian 4 tiếng rưởi), tức là không có khái niệm chờ đợi vì thế ngũ uẩn giai không đối với Anh Tâm. Vì tâm không bị quấy rối nên thọ, tưởng, hành ,thức đều bị rơi rụng ngay trước mắt về việc KHÔNG đến của nhân viên và về việc đợi chờ của bản thân.

 ĐỢI CHỜ

 

Bốn tiếng đồng hồ tôi đợi chờ

Từ tám giờ sáng đến giữa trưa

Nhân viên Hà Đông vẫn chưa đến

Mang dàn vi tính tặng trẻ thơ

Nắng vàng lan toả khắp mặt đường

Soi bóng hàng cây lá xanh tươi

Thơ thẩn xe cộ người qua lại

Phong cảnh tuyệt trần giữa thế gian!

 

Trở lại vấn đề có thần thánh, ma quỷ hay không có thần thành, ma quỷ. Việc có hay không có thần thánh không thành vấn đề [“to be or not to be is not a question”]. Có hay không sẽ trở thành vấn đề phiền não khi hai bên chấp chặt và bảo thủ quan kiến của mình. Đó là nguyên nhân dẫn đến bất hòa giữa các cá nhân, từ gia đình, tập thể cho đến quốc gia. Gia đình bất hòa, thế giới đảo điên, xung đột, chiến tranh khắp đó đây vì cố chấp mà ra.  Để chung sống hạnh phúc, chúng ta hãy bao dung với nhau, tôn trọng lẫn nhau và đừng để quan điểm ‘có’, ‘không’ làm mất hòa khí, gây sân hận và phiền toái.  Làm được như vậy có thể nói là ngũ uẩn giai không rồi đó vậy.

Tâm Tịnh xin lấy số liệu thống kê của CIA trong quyển World Fact Book (năm 2010) về số lượng người trên thế giới có tôn giáo (có thần thánh chiếm 85.91%) và số lượng vô thần (14.09%) để anh em tham khảo:

 ton giao the gioi



Vấn đề cuối cùng là Phật Giáo Nguyên Thủy có thuyết về thần thánh hay không? Câu trả lời là có, vấn đề chư thiên, quỷ thần vv bàng bạc trong cả năm bộ kinh Nikàya của Phật giáo Nam truyền từ Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh và Tiểu Bộ Kinh. Nhất là trong tiểu bộ kinh ngoài hàng trăm câu chuyện trong tập Thiên Cung Sự và Ngạ Quỷ Sự, 547 câu chuyện tiền thân là những tư liệu để chúng ta nghiên cứu về vấn đề này.

Vài dòng tâm sự với anh em tình thân để mong anh em hiểu và thương, cùng chung sống bao dung, thông cảm và sẻ chia như tâm nguyện của anh em TỪ HÒA.

 THƯƠNG

 

Thương là cho nhưng lòng không vấn vương

Không danh lợi, không giận hờn oán trách

Thương tất cả thân sơ cùng kẻ oán

Không phân biệt cao thấp hay giàu nghèo

Thương là hiểu, thông cảm và sẻ chia

Dù có kẻ  não hại ta vẫn vậy

Vẫn là thương vô ngã tự nhiên hương.


Tâm Tịnh




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/08/2010(Xem: 4247)
Phải chờ thêm 12 năm nữa, cho đến 1871, khi không thể giấu mãi niềm tin chắc của mình, ông mới xuất bản tác phẩm "Thủy tổ của con người". Darwin viết thầm trong Nhật Ký: "Để tránh khỏi phải nói rằng tôi đã trở thành duy vật đến thế, tôi phải nhẹ nhàng trong cách nói, chỉ nói rằng những cảm xúc, những bản năng, những mức độ tài năng, tất cả đều di truyền, bởi vì bộ não của đứa bé giống như bộ não của cha mẹ nó" (18). Ông viết trong thư gửi Karl Marx: Đừng tấn công trực tiếp Thiên chúa giáo làm gì, vô ích đối với quần chúng; "hãy làm giàu trí óc con người bằng tiến bộ của khoa học, chỉ nhờ thế tự do tư tưởng mới phát triển thêm. Và bởi vậy, tôi tránh nói đến tôn giáo, chỉ hạn chế vào khoa học" (19).
16/07/2010(Xem: 8000)
Nhà nước xác nhận ý muốn thực hiện sự tách rời giáo quyền ra khỏi chính quyền. Giáo quyền và chính quyền là hai lãnh vực riêng biệt không có quyền can thiệp vào nhau. Nhưng cả giáo quyền và chính quyền đều phải có đạo đức, nếu cả hai đều không muốn phá sản. Vì vậy tôn giáo có thể giúp cho chính trị và chính trị có thể giúp cho tôn giáo, nhưng cả hai bên đều phải theo luật pháp quốc gia. Bên tôn giáo có thể đóng góp tuệ giác và nhắc chừng về chiều hướng tâm linh đạo đức trong cả hai ngành lập pháp và hành pháp, bên chính trị có thể đóng góp ý kiến về sự suy thoái đạo đức trong tôn giáo và sự lạm dụng giáo quyền trong việc tìm cầu danh lợi và quyền bính, và yểm trợ cho tôn giáo trong những công tác giáo dục đạo đức và thực tập đưa tới lành mạnh hóa xã hội.
04/07/2010(Xem: 5211)
1. Người Cộng Sản Việt Nam cảm thấy thoải mái trong nếp sống văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam và nguyện sống như thế nào để có thể mỗi ngày làm đẹp thêm nếp sống ấy.
03/07/2010(Xem: 5253)
“Kính thưa các bạn, tôi đã từng có dịp đọc Phúc Âm với con mắt của một thiền sư. Chúng tôi đã từng có giao lưu với các linh mục và các vị mục sư. Chúng tôi đã từng sinh hoạt chung, những sinh hoạt này không phải chỉ là trao đổi ý kiến và kinh nghiệm mà còn là sống chung và tu tập chung. Chúng tôi xin phát biểu trên cơ bản đó. Chúng tôi cũng đã tham dự nhiều buổi họp, nhiều hội nghị đối thoại giữa đạo Phật, đạo Ki Tô và những đạo khác. Tôi nhớ ngày xưa có một thiền sư Việt Nam đã đọc kinh Dịch và đã trình bày kinh Dịch theo cái nhìn của một thiền sư.
03/06/2010(Xem: 4133)
"Phải có gì của riêng ta thì mới dung thông được với cái của người. Khi ta không biết ta là ai mà mở cửa đón nhận thì mất luôn cả mình. Điều đáng sợ nhất trong văn hóa VN là đánh mất bản sắc của mình, vậy nhưng, hình như ta còn chưa nhất trí được bản sắc của mình là gì nữa"
21/05/2010(Xem: 4542)
Tôi mới đây được xem bộ phim 'Kẻ trộm sách' của đạo diễn Brian Percival và trong đầu luôn ghi nhớ hình ảnh cô bé xinh xắn, đáng yêu Liesel Meminger nghiêng mình bên trang sách.
20/05/2010(Xem: 4914)
30 tháng 7, 2009 Vấn đề Alexandre de Rhodes chưa thể quên đối với người dân Việt nhất là với giới nghiên cứu vì vài lý do: a- Sau năm 1993 “bia 1941” của A. de Rhodes, được dựng lại tại khuôn viên thư viện Hà Nội và tên đường A. de Rhodes cũng được tái lập tại TP. Hồ Chí Minh/
10/03/2010(Xem: 3853)
Ông Đỗ Trung Hiếu là người Khánh Hòa, nguyên là giáo sư của trường Trung học Bồ Đề Nha Trang. Khoảng năm 1962-1963, Ông xuất hiện trong phong trào tranh đấu Phật Giáo Nha Trang và Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc . Sau đó không ai biết tông tích ông. Sau năm 1975 ông xuất hiện và giữ vai trò trọng yếu trong Ban Tôn Giáo chính phủ. Năm 1990 ông đã được ra khỏi đảng do bất đồng chính kiến. ‘Niềm Riêng’ ở cuối bài Thống nhất Phật giáo nói lên rất nhiều điều.
26/09/2009(Xem: 6317)
Thi hành Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ ra Thông bạch thành lập cơ cấu mới của Giáo hội tại Hoa Kỳ, Canada, Âu châu, Úc châu và Tân Tây Lan gồm những thành viên trung kiên theo đường lối dân tộc và Phật giáo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
15/09/2009(Xem: 6473)
Để đối phó với tình hình khó khăn, bị vu cáo trắng trợn và đe dọa thường trực, Đức Đệ tứ Tăng thống Thích Huyền Quang ban hành Giáo chỉ thành lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo mới
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567