Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tự tại giữa có và không

27/08/201818:20(Xem: 3690)
Tự tại giữa có và không




hoa_sen (23)

TỰ TẠI GIỮA CÓ VÀ KHÔNG


Làm sao có thể sống hạnh phúc trong thế giời đầy ngã chấp như hiện nay? Để được như vậy, chúng ta bớt chấp. Khi chúng ta bớt chấp,  chúng ta bới  phiền muộn, bớt đau khổ. Khi chúng ta không còn chấp, thì chúng ta được tự tại, giải thoát, lúc đó niết bàn ‘hiện ra’. Vấn đề không chấp thủ rất phức tạp từ thô đến vi tế và thậm chí đến mức độ vi tế thì không từ ngữ nào có thể diễn đạt được. Vì thế, bài luận chỉ tập trung việc không chấp thủ ở mức độ tương đối bằng cách làm sáng tỏ luận cứ tự tại giữa ‘có’ và ‘không’ trong thế giới hiện hữu này.

KHÔNG QUẢ

 

Tâm người đời buồn vui theo cảnh

Lúc tươi cười lúc thì buồn lo

Quả thiện đến lòng như trẩy hội

Rồi lại phiền khi nghiệp xấu ra

Không hề biết khi hồn đã thiện

Việc gì đến không còn vấn vương!

 

Nhân duyên viết bài này là do một thân hữu tâm tình với anh em tình thân: “Phật Giáo Nguyên Thủy cho rằng vì ngũ uẩn giai không, tức là không có gì, nên chết là hết, và không có thần thánh, ma quỷ gì cả…”

Chúng ta đang sống trong thế giới hiện hữu vật chất nên Tâm Tịnh xin trò chuyện với anh em vấn đề này trong thế giới hiện tại để mọi người đều có thể cảm nhận được.

Thật ra ‘có’ và ‘không’ cả hai đều không: không ở đây là không chấp thủ cái ‘có’ và không chấp thủ cái ‘không’ để mình ít phiền não và được hạnh phúc hơn. Nói một cách khác, ngũ uẩn giai không ở đây có nghĩa là không chấp chặt cái ‘không’ và cũng chấp chặt cái ‘có’. Từ đó chúng ta hết khổ, thong dong tự tại trong cuộc sống đầy biến động như hiện nay. Để dễ hiểu, Tâm Tịnh xin đưa ra hai câu chuyện sau:

Câu chuyện thứ nhất: chấp ‘có’ và không chấp ‘có’, tức là tự tại và thong dong với cái ‘có’ (có một cô gái Huế xinh đẹp):

Có hai anh chàng nghèo xứ Quảng ra Huế thi đại học và mang theo hoài bảo: cố gắng thi đỗ đại học và sau khi tốt nghiệp có một việc làm tốt để giúp gia đình thoát cảnh nghèo khổ. Thế nhưng, một trong hai sĩ tử bị choáng ngợp trước vẻ đẹp kiều diễm và giọng nói êm diệu của cô gái Huế như hai câu thơ sau

Học trọ xứ Quảng ra thi

Thấy cô gái Huế chân đi không đành

Anh chàng bị cái đẹp ‘một hai nghiêng nước nghiêng thành’ hớp hồn nên đêm về tương tư không ngủ được. Sáng hôm sau mệt mỏi thức dậy đi thi, nhưng vì quá mệt do tương tư nên anh chàng không làm bài được. Kết quả anh chàng bị rớt đại học. Lòng trở nên ê chề, u sầu, xanh xao, gầy mòn khiến mọi người trong gia đình và người thân lo âu.  Do chấp thủ sắc đẹp cô gái Huế hay nói một cách khác do chạy theo cái đẹp của cô gái Huế mà đã gây ra phiền não cho bản thân và gia đình.

Trong khi đó,  anh chàng sĩ tử kia thấy cô gái Huế bình thương như bao cô gái khác:

Học trò xứ Quảng ra thi

Thấy cô gái Huế như bao gái Làng

(trong nghĩa làng xóm)

Anh ta không bị cái đẹp ‘chim sa cá lặn’ của cô gái Huế làm cho điên đảo mà chỉ lo chú tâm vào mục tiêu hiện tại. Kết quả anh chàng làm bài tốt và đỗ vào Đại Học như mong ước, mang lại niềm vui cho mình, cho gia đình và người thân. Có thể nói, anh chàng sĩ tử thứ hai thong dong tự tại với cái có (cô gái huế), không bị sắc đẹp của cô gái Huế tác động vào tâm thức, không làm tâm chao động, vì thế được an vui, hạnh phúc không như anh chàng sĩ tử thứ nhất bi đau khổ do tâm bị chao động vì chấp thủ. Nói một cách khác, do thong dong tự tại với cái có (có cô gái Huế như bao gái Làng), nên không bị chao động. Ở chừng mực nào đó có thể ví lúc này ngũ uẩn thật sự giai không đối với sĩ tử thứ hai. (không chấp Sắc (cô gái Huế), thì Thọ, Tưởng, Hành và Thức đều rơi rụng, tức là ngũ uẩn giai không: “do chấp thủ không quấy rối vi ấy, vị ấy tự chứng niết bàn”(Trung Bộ Kinh: Majjhima Nikaya 140. Kinh Giới phân biệt -Dhàtuvibhanga sutta).

 

Câu chuyện thứ hai: Tự tại thong dong với cái không

Vào năm 2016, Anh Tâm hẹn gặp nhân viên của một công ty A mang dàn vi tính tặng cho Lớp Học Tình Thương Ông Bà Tư tại Suối Tiên vào lúc 8 sáng Chủ Nhật. Anh Tâm đến đó sớm hơn một chút như đã hẹn nhưng đến 9 giờ vẫn chưa thấy nhân viên của công ty A đến. Anh Tâm gọi điện cho ông chủ và được ông chủ hứa sẽ cho nhân viên chở dàn vi tính đến ngay. Anh Tâm không quên nhắc nhở: “Hiền ơi, nhớ bảo nhân viên đừng chạy xe vội và chạy xe cẩn thận nhé Hiền.”  Thế mà, đến 12.30 pm, nhân viên mới xuất hiện cùng với dàn vi tính dưới cái nắng nóng oi bức lúc giữa trưa của Sài Gòn. Anh Tâm không hề quan tâm đến việc đến trễ của nhân viên mà lại rất hoan hỷ và thật sự biết ơn nhân viên này vì không quản đường xa và thời tiết oi bức đã chở một dàn vi tính (5 máy) từ Quận Bình Thạch đến tận Suối Tiên.

Nhân viên không đến trong vòng bốn tiếng rưỡi ‘đợi chờ’ , nhưng Anh Tâm không bực mình mà ngược lại còn quan tâm đến sự an toàn và lòng đầy biết ơn khi nhân viên mang theo dàn vi tính dưới cái nắng oi bức giữa trưa của Sài Gòn vào tháng Bảy. Trong khoảng thời gian ấy, Anh Tâm để tâm ‘hiện tại lạc trú’ vào dự án nghiên cứu Lớp Học Tình Thương ở Sài Gòn. Rồi thi thoảng, Anh Tâm an trú tâm vào cảnh vật xung quanh, một kiệt tác sống động trải ra trước mắt. Ôi đẹp quá, lòng đầy hân hoan. Tất cả đều được Anh Tâm nhận biết rất rõ ràng. An trú tâm vào đối tượng nhưng không chấp chặt vào đó, để lòng thanh thản với tất cả. Trong trường hợp này, Anh Tâm đã tự tại thong dong với cái việc nhân viên KHÔNG đến (trong khoảng thời gian 4 tiếng rưởi), tức là không có khái niệm chờ đợi vì thế ngũ uẩn giai không đối với Anh Tâm. Vì tâm không bị quấy rối nên thọ, tưởng, hành ,thức đều bị rơi rụng ngay trước mắt về việc KHÔNG đến của nhân viên và về việc đợi chờ của bản thân.

 ĐỢI CHỜ

 

Bốn tiếng đồng hồ tôi đợi chờ

Từ tám giờ sáng đến giữa trưa

Nhân viên Hà Đông vẫn chưa đến

Mang dàn vi tính tặng trẻ thơ

Nắng vàng lan toả khắp mặt đường

Soi bóng hàng cây lá xanh tươi

Thơ thẩn xe cộ người qua lại

Phong cảnh tuyệt trần giữa thế gian!

 

Trở lại vấn đề có thần thánh, ma quỷ hay không có thần thành, ma quỷ. Việc có hay không có thần thánh không thành vấn đề [“to be or not to be is not a question”]. Có hay không sẽ trở thành vấn đề phiền não khi hai bên chấp chặt và bảo thủ quan kiến của mình. Đó là nguyên nhân dẫn đến bất hòa giữa các cá nhân, từ gia đình, tập thể cho đến quốc gia. Gia đình bất hòa, thế giới đảo điên, xung đột, chiến tranh khắp đó đây vì cố chấp mà ra.  Để chung sống hạnh phúc, chúng ta hãy bao dung với nhau, tôn trọng lẫn nhau và đừng để quan điểm ‘có’, ‘không’ làm mất hòa khí, gây sân hận và phiền toái.  Làm được như vậy có thể nói là ngũ uẩn giai không rồi đó vậy.

Tâm Tịnh xin lấy số liệu thống kê của CIA trong quyển World Fact Book (năm 2010) về số lượng người trên thế giới có tôn giáo (có thần thánh chiếm 85.91%) và số lượng vô thần (14.09%) để anh em tham khảo:

 ton giao the gioi



Vấn đề cuối cùng là Phật Giáo Nguyên Thủy có thuyết về thần thánh hay không? Câu trả lời là có, vấn đề chư thiên, quỷ thần vv bàng bạc trong cả năm bộ kinh Nikàya của Phật giáo Nam truyền từ Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh và Tiểu Bộ Kinh. Nhất là trong tiểu bộ kinh ngoài hàng trăm câu chuyện trong tập Thiên Cung Sự và Ngạ Quỷ Sự, 547 câu chuyện tiền thân là những tư liệu để chúng ta nghiên cứu về vấn đề này.

Vài dòng tâm sự với anh em tình thân để mong anh em hiểu và thương, cùng chung sống bao dung, thông cảm và sẻ chia như tâm nguyện của anh em TỪ HÒA.

 THƯƠNG

 

Thương là cho nhưng lòng không vấn vương

Không danh lợi, không giận hờn oán trách

Thương tất cả thân sơ cùng kẻ oán

Không phân biệt cao thấp hay giàu nghèo

Thương là hiểu, thông cảm và sẻ chia

Dù có kẻ  não hại ta vẫn vậy

Vẫn là thương vô ngã tự nhiên hương.


Tâm Tịnh




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2012(Xem: 11693)
Cái gọi là Đường Lưỡi Bò Nghe thật lạ, không vô Cũng không phải dưới đất chui lên Cũng không phải trên trời rớt xuống...
28/07/2012(Xem: 12166)
Biển Đông dậy sóng Đang đe dọa Việt Nam cùng Đông Nam Á Đường Lưỡi Bò là lưỡi hái xâm lăng...
19/07/2012(Xem: 4715)
Chính nghiệp lực là nguyên nhân của sự phân chia các loài, các loại người và loại vật. Không nên so sánh con người và con vật. Tuy nhiên một điều dễ nhận thấy, là rất nhiều con vật được sống sạch sẽ và tươm tất hơn một số con người, lại cũng có số người sống không bằng kiếp vật. Do vậy tình thương của Đức Phật như dòng nước tràn về miền sa mạc, những chỗ thấp có thể ví như con người nước thấm trước hết, sau đó [nước từ bi] tràn lên và thấm nhuần hết thảy những chỗ nhô cao hơn (được ví như cõi vật và các loài khác).
15/07/2012(Xem: 5621)
Trong tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số đặc biệt 144 - 145, ra ngày 1-1-2012, có đăng bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn, một bài viết có nhiều điểm liên quan đến vấn đề phiên dịch kinh điển. Với vai trò của một nhà nghiên cứu, dịch thuật kinh điển Phật giáo trong nhiều năm, tác giả Đào Nguyên đã nhận thấy bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn có một số điểm cẩn phải trao đổi. Nhân đây, xin trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Đào Nguyên đến quý bạn đọc.
10/07/2012(Xem: 4438)
Từ lâu, khi viết về các vương quốc ở Ấn Độ thời Phật, các học giả đã chú ý đến các yếu tố “dân chủ”trong chế độ các nưóc ấy. Tôi đọc, nhưng thú thực không hào hứng mấy, cứ nghĩ chuyện ấy đã thuộc quá khứ xa xăm. Lý thuyết mà không có thực tế diễn ra trước mắt thì chỉ thỏa mãn được cái đầu, không làm rung động trái tim. Máu tôi chỉ thực sự nóng lên từ khi tôi theo dõi cuộc tranh đấu cho dân chủ của bà Aung San Suu Kyi và sau đó tìm đọc những tác phẩm của bà. Bà đã làm sống lại lý thuyết, bà thở với lời Phật, tranh đấu với hồn Phật.
02/07/2012(Xem: 6052)
Cách đây khoảng 20 năm, phong trào học thiền Nhân Điện xuất hiện trong cộng đồng người Việt ở Mỹ rồi một thời gian sau đó truyền về Việt Nam mà người khởi đầu là ông Lương Minh Đáng, một người Việt di cư đến Mỹ năm 1985. Những người theo học được ông hoặc các người phụ tá giảng dạy khai mở luân xa, rồi sau đó có thể tự chữa lành bệnh cho mình và cho tha nhân, kể cả các căn bệnh như ung thư và tim mạch và có khả năng chữa bệnh cho bệnh nhân ở xa qua việc truyền nhân điện bằng điện thoại.
14/05/2012(Xem: 9581)
Đa số tiểu bang của Hoa Kỳ, hôn nhân vẫn được định nghĩa theo hiến pháp qui định là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Tính cho đến tháng 5 năm 2012, chỉ có sáu tiểu bang (Connecticut, Iowa, Massachusetts, Vermont, New York và New Hampshire), và thủ đô Washington DC, đã chấp thuận hôn nhân đồng tính (giữa một người nam với một người nam hoặc giữa một người nữ với một người nữ).
12/04/2012(Xem: 4114)
Bài viết này không đưa ra một đề xuất nào, đối với bất kỳ cơ quan nào, mà chỉ thử dự đoán những gì sẽ xảy ra nếu hiện tượng Duy Tuệ vẫn tiếp tục diễn biến. Việc dự đoán như sẽ được trình bày dưới đây là không mấy khó khăn khi căn cứ trên những gì đã diễn ra, với giấy trắng mực đen, rành rành trên những trang của quyển sách có nhan đề ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiều lầm sau hàng ngàn năm” (sau đây gọi tắt là “Ta là ai?”).
22/03/2012(Xem: 4074)
Những bức hình giúp bạn nhận ra triết lý cuộc sống.
19/03/2012(Xem: 4529)
*Chánh Pháp thời kỳ: là sau Phật diệt độ, mới bắt đầu 500 năm Chánh pháp.( Theo luận Tỳ bà sa Q18. Vì độ cho Nữ giới xuất gia, nên Chánh Pháp bị giảm còn 500) Chánh pháp, có nghĩa là ‘Chứng Pháp’. Thời kỳ này có pháp, có người tu, và có người chứng được pháp đã tu. Có đủ Giáo Hạnh. Chánh pháp tồn tại 500 năm, hết 500 năm là qua thời tượng pháp. *Tượng Pháp thời kỳ: , là sau Chánh pháp, Tượng pháp tồn tại được 1000 năm. Tượng có nghĩa là ‘vẫn giống’ như Chánh pháp, có giáo, có hạnh,có pháp để tu, nhưng ít người chứng ngộ. Hết 1000 năm Tượng-pháp, là vào thời kỳ mạt pháp. *Mạt Pháp thời kỳ : Là thời khởi đầu chuyển thành ‘vi mạt’, Pháp mạt tồn tại Mười Ngàn Năm (10.000). Chỉ có Giáo mà không còn Hạnh! Tệ hơn, nhỏ bé hơn, thời kỳ của hao mòn, teo tóp, suy vi, chánh tà lẫn lộn. Ngày nay, Tuợng pháp hết đã lâu. Mạt Pháp cũng đã trôi qua 1051 năm rồi, nhưng còn kéo dài 8.949 năm nữa thì “Mạt Pháp” chấm dứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567