Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

“Vài Nhận Xét Về Vài nhận xét về vấn đề dịch lại Tâm Kinh của Thầy Nhất Hạnh

19/12/201706:15(Xem: 7505)
“Vài Nhận Xét Về Vài nhận xét về vấn đề dịch lại Tâm Kinh của Thầy Nhất Hạnh




hoa_sen

Vài nhận xét  về “ VỀ CÁC BÀI PHÊ BÌNH BẢN DỊCH MỚI
TÂM KINH CỦA THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH của Bác sĩ Trịnh Đình Hỷ » [1]
Lê Tự Hỷ

 

       Trước hết xin cảm ơn Bác sĩ Trình Đình Hỷ (Bs. TĐH) đã có những nhận xét góp ý về bài viết của tôi “Vài Nhận Xét Về Vài nhận xét về vấn đề dịch lại Tâm Kinh của Thầy Nhất Hạnh” [2]. Trong bài viết này tôi chỉ quan tâm tới phần nhận xét Bs TĐH về bài viết của tôi, còn phần nhận xét về hai tác giả Jayarava và Nguyễn Minh Tiến thì xin để dành hai tác giả ấy. 
    Vì TĐH là một Bác sĩ cho nên xin quí độc giả hãy cho phép tôi xem bài viết của tôi như là một con người với tên là “Tôi” . Như vậy là Tôi đã được Bs TĐH khám sức khỏe với mở đầu của bệnh án:
      “Rất tiếc câu hỏi đặt ra rất đúng đắn, nhưng câu trả lời thì lại gây ít nhiều thất vọng vì thiếu chính xác, nếu không muốn nói là lờ mờ! » và Kết luận
     “Nói tóm lại theo tôi, bài nhận xét của LTH không đạt được mục đích đã định, vì không nắm được phần cốt yếu của Bản dịch mới Tâm Kinh mà TNH đã giải thích một cách cặn kẽ và súc tích (1). … Tuy nhiên, tôi có cảm tưởng rằng chính sự quan tâm đặc biệt vào khía cạnh « kỹ thuật » này đã lôi kéo ông đi quá xa về hình thức, cho nên đã không trả lời được một cách rõ ràng và thực tiễn về nội dung các câu hỏi đưa ra »  
     Như vậy Bs TĐH đã viết bệnh án “Tôi không đủ sức khỏe để thực hiện được mục đích đã định…Bs có cảm tưởng Tôi đã dùng quá nhiều sức cho hình thức nên không còn sức để thực hiện nội dung”.

    Bs khám bệnh mà viết “tôi có cảm tưởng” thì phải chăng Bs đã không tự tin vào chứng cứ trong việc chẩn đoán của ông. Và Tôi quay ra đi tìm xem Bs đã dùng “tài năng về bệnh lí” và “dụng cụ Y khoa”  của ông như thế nào định bệnh cho Tôi?.

    Thì sau đây là những “sở trường về bệnh lí” và “dụng cụ Y khoa” của Bs TĐH:

1. Bs viết “Tôi xin phép không trở lại những bất đồng ý kiến về cách dịch prajñāpāramitā của TNH, vì đã trình bầy trong phần trước
    Thì ra ở phần bình về Jayarava, Bs đã hàm ý tôi đã sai khi dịch từ prajñāpāramitā là “pháp tu làm cho tuệ giác qua bờ” mà Bs sĩ đã khẳng định như đinh đóng cột đó là “trí tuệ qua bờ” và “« trí tuệ siêu việt » có lẽ là hay nhất! ». Bs đã viết : « Tuy nhiên theo đa số các nhà Phật học, nếu dịch prajñāpāramitā theo từng chữ (litterally) thì là « vượt qua - trí tuệ » (beyond wisdom), theo nghĩa « trí tuệ vượt qua trí tuệ thông thường (là trí tuệ dùng sự phân tích các hiện tượng, của Abhidhamma) » (the wisdom beyond ordinary wisdom). Trong trường hợp đó, giữ « trí tuệ siêu việt » có lẽ là hay nhất »
     Vậy là Bs chỉ tin vào lời của « đa số các nhà Phật học » mà không liệt kê ra, trong đó có những nhà Phật học lừng danh thế giới như  Edward Conze, Max Muller, Donald S. Lopez hay không ? Như vậy Bs TĐH đã « tin mù » như Đức Phật đã dạy trong kinh Kālāma và do đó đã không «khám kỹ Tôi» mà viết bệnh án với : « Cũng như không hiểu cách phân tích các từ ngữ sanskrit của LTH, theo “giống đực, giống cái”, hay “quá trình động, kết quả tĩnh”, có lợi ích gì?”. Quả là Bs TĐH đã không thấy, không biết cái “giống cái” của từ kép “prajñāpāramitā” nằm ở chỗ nào và nó giữ vài trò gì ở đây. Tôi không trách Bs về điều này, nhưng Tôi trách Bs đã “không dùng hết khả năng hiểu biết về bệnh lí” của ông cũng như không dùng các dụng cụ Y khoa hiện đại để chẩn bệnh mà đã vội “viết bệnh án của Tôi” cho nên tôi nghi lắm lắm!.
     Vậy Tôi xin ngài Bs TĐH hãy chịu khó quay về Trường Y của Đại Học Princeton, vào thư viện mượn (4) The Princeton Dictionary of Buddhism của Robert E. Buswell Jr. & Donald S. Lopez (2014), đọc lại pp. 656-657, rồi hãy viết lại bệnh án cho Tôi !

2. Bs viếtTôi cũng hiểu LTH khi ông nhấn mạnh vào khía cạnh « thực hành sâu xa » của prajñāpāramitā, nhưng đó chỉ là một chi tiết trong câu mở đầu của bài kinh, không phải là phần chính yếu »
    Đây Bs đã phê Tôi có cái bệnh mà thật ra Tôi không có : Tôi chống lại cái ý « thực hành sâu xa » của “prajñāpāramitā” mà Bs lại nói Tôi nhấn mạnh vào khía nay ? Và còn thêm « nhưng đó chỉ là một chi tiết trong câu mở đầu của bài kinh, không phải là phần chính yếu » thì Bs đã không khám kỹ Tôi rồi. Tiếc thay!

3. Bs viếtTrong khi giải thích « tính (hay tánh) không », tôi e rằng LTH nhầm lẫn chữ « tánh » với chữ « tướng ». « Tướng » (pali lakkhana, sanskrit lakṣaṇa) có nghĩa là « vẻ ngoài, hình tướng » (aspect, appearance, mark, characteristic), cũng như trong « Ba pháp ấn, pali tilakkhana » (3 marks of existence) hay Kinh « Vô ngã tướng » (pali anatta-lakkhana sutta). « Tánh » như trong chữ « tánh không » được dùng như một hậu tố (suffix) sau một tính từ để chỉ định danh từ gắn liền với nó: thí dụ śūnya là tính từ, dịch là « không » (empty, void), śūnyatā là danh từ, dịch là « tánh không » (emptiness, voidness). Vì vậy cho nên khi LTH giải thích « các ngài dùng từ “có tướng không” để nói nghĩa “có tính không”, tức “có đặc tính không có tự tính”, “có đặc tính không tự có”; và do đó: “tướng không” tức là “tính không” là “đặc tính không có tự tính” hay “đặc tính không tự có” », thì thú thật là… tôi thấy quá rắc rối làm sao! Cũng như không hiểu cách phân tích các từ ngữ sanskrit của LTH, theo “giống đực, giống cái”, hay “quá trình động, kết quả tĩnh”, có lợi ích gì?”
   Câu phê này của Bs TĐH mới là phần sai rất nặng của bệnh án! Và do đó Tôi xem thử xem “sở học bệnh lí của Bs” như thế nào và Bs đã dùng dụng cụ Y khoa để khám Tôi? Té ra Bs phê Tôi bị “alzheimer” nên “nhầm lẫn”  “tánh ” với “tướng” vì ngài Bs đã viết « Tướng » (pali lakkhana, sanskrit lakṣaṇa) có nghĩa là « vẻ ngoài, hình tướng » (aspect, appearance, mark, characteristic). Như vậy ngài Bs hiểu từ  (pali lakkhana, sanskrit lakṣaṇa) có nghĩa là « vẻ ngoài, hình tướng » chứ không phải tính chất đặc trưng ở bên trong của sự vật !. Tiếc thay là ngài Bs nay đã liệt kê ra 4 từ tiếng Anh (aspect, appearance, mark, characteristic) mà ngài không dùng 3 từ characteristic, aspect và mark trong nghĩa trong Nhận Thức Luận Phật Giáo (Buddist Epistemology), mà thật ra không cần « đi sâu » chỉ cần nhìn một mình cái từ « characteristic » cũng giúp ngài thấy lakṣaṇa được dùng ở đây không phải là « vẻ bên ngoài » như ngài tưởng ! Có lẽ vì ngài Bs « dấu nghề » và dùng « dụng cụ Y khoa thô sơ » để khám Tôi cho nên ngài mới thấy lakṣaṇa« vẻ bên ngoài, tướng bên ngoài». Vậy xin Bs hãy dùng các công cụ tân tiến chí ít là kính hiển vi, cao hơn CT scanner hay ngon nhất là MRI thì ngài đã không phê bệnh án của Tôi như thế. Vậy Tôi xin ngài hãy  « Trở lại Trương Y của Đại Học Princeton như Tôi đã giới thiệu trên và đọc mục từ « lakṣaṇa » p. 463 hay chí ít là dùng [5] Sanskrit and Tamil Dictionaries; New and improved version of Monier Williams' Sanskrit-English Dictionary;  (http://www.sanskrit-lexicon.uni-koeln.de/scans/MWScan/tamil/index.html) và tra tìm từ lakṣaṇa có khi ngài sẽ thấy «n, (ifc). = "marked or characterized by", "possessed of" .
  
 Cũng xin phép chỉ ra một công cụ tinh vi hơn là xin ngài Bs hãy đọc bản dịch Tâm Kinh từ Phạn ra Anh của F.Max Muller & Bunyiu Nanjio [6] trang 48-50 trong “The Ancient Palm Leaves: Contaning The Prgana- Paramita- Hridaya -Sutra And The Ushnisha-Vigaya_Dharani, Oxford 1884” ngài sẽ thấy hai vị này dịch từ lakṣaṇa là gì, có phải « vẻ bên  ngoài » như ngài nghĩ khôn ? Thật ra ngài Bs đã « dụng cụ Y khóa thô sơ » cho nên đã lấy từ lakṣaṇa đứng riêng ra mà dịch « đại » chứ không thấy nó nằm trong từ tính từ kép bahuvrīhi « śūnyatā-lakṣaṇāḥ” trong câu Phạn.. . thì không dịch riêng cái từ lakṣaṇa như ngài nghĩ mà phải dịch cả từ kép bahuvīhi «  śūnyatā-lakṣaṇāḥ”! Vì hẳn là Bs TĐH có thể khó tìm ra sách này nên Tôi xin trích ra phần họ dịch ra tiếng Anh thành “all things have the character of emptiness” thì śūnyatā-lakṣaṇa ở đây là “having character of emptyness» ngài Bs ạ ! Không những thế, ngài Bs cũng đã tách từ lakṣaṇa ra khỏi từ kép bahuvrīhi, “śūnyatā-lakṣaṇa” để dịch “đại” là “vẻ bên ngoài, tướng bên ngoài” mà ngài không biết từ kép “śūnyatā-lakṣaṇa”  có nghĩa “có/(với/ mà) đặc tính là sự không có tự tính”, nói gọn “có đặc tính không có tự tính” hay “đặc trưng bởi không có tự tính” hay “có đặc tính không tự có) (having the character of emptiness, marked by (/with) emptiness, characterized by emptiness).
     Thưa ngài Bs, quả thật không những đối với riêng ngài mà còn đối với bất kỳ ai thì chữ Phạn không đơn giản! khi chưa có điều kiện, thời gian để học nghiêm túc, đúng như câu ngài phê vào bệnh án của Tôi « thì thú thật là… tôi thấy quá rắc rối làm sao!”!  
4. Bs viết : « Thật ra, TNH có bao giờ nói là mình dịch Tâm Kinh từ tiếng sanskrit đâu! » Có đúng không ?
 
  Thầy Nhất Hạnh đã cho rằng do một vị tổ thiếu khéo léo biên tập Tâm Kinh khiến người ta hiểu lầm từ rất lâu năm nay. Rồi thầy trích vài câu Phạn để dịch lại. Như vậy là hàm ý thầy đã dịch Tâm Kinh từ bản Phạn chứ sao? mà Bs lại nói thầy không dịch từ Phạn! mà rồi chính Bs cũng trích chữ các chữ Phạn lakṣaṇa, śūnya, śūnyatā để « bàn luận » biện hộ cho thầy đó! Hơn nữa chính thầy Nhất Hạnh dã viết « Cũng vì vậy mà trong bản dịch mới này, Thầy đã đổi luôn cách dùng chữ trong nguyên văn tiếng Phạn[3].  Vậy mà Bs vẫn cho rằng thầy Nhất Hạnh không dịch Tâm Kinh từ chữ Phạn ?

5. Bs viết « Nhưng thật ra, có bao giờ TNH nói rằng Tâm Kinh « sai » hay có « mâu thuẫn » đâu? Có đúng vây không ?
      Chính thấy Nhất Hạnh đã viết : « Vấn đề bắt đầu từ câu kinh: “Này Śāriputra, vì thế mà trong cái không, không có hình hài, cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức(tiếng Phạn: Tasmāc śāriputra śūnyatayāṃ na rūpaṃ na vedanā na saṃjñā na saṃskārāḥ na vijñānam). Ô hay! Vừa nói ở trên là cái không chính là hình hài, và hình hài chính là cái không, mà bây giờ lại nói ngược lại: Chỉ có cái không, không có hình hài” [3]. Viết “nói ngược lại” mà Bs không công nhận nói “mâu thuẩn” sao Bs?
6. Bs viết : “Xin nhắc lại là sự sửa đổi chính yếu, quan trọng nhất của Bản dịch mới là ở câu « Vì thế mà trong cái không, không có hình hài… » mà TNH đã thay bằng « Chính vì vậy mà trong cái không, năm uẩn là hình hài…đều không có mặt như những thực thể riêng biệt ». Như vậy thì có khác gì với lời dạy của các HT Thích Trí Thủ và Thích Thanh Từ rằng « các uẩn đều không có tự tánh » đâu?”
    Hãy cứ cho là “có khác gì với lời dạy của các HT Thích Trí Thủ và Thích Thanh Từ rằng « các uẩn đều không có tự tánh » đâu?” thì xin Bs đếm thứ mỗi vị dịch ra bao nhiêu từ? để thấy Bản dịch lại của thầy so với các bản khác thế nào?

Kết luận:
     Bs TĐH đã khám bệnh cho Tôi. Nhưng tiếc rằng Bs đã dấu nghề “ không dùng sở trường bệnh lí uyên thâm của ngài” và “chỉ dùng những dụng cụ Y khoa thô sơ” để khám và viết “bệnh án cho Tôi”. Quả là tiếc thay! Tiếc thay!

                                                                                                   17/12/2017
                                                                                                    Lê Tự Hỷ
Tài liệu tham khảo:
1. http://giaodiemonline.com/2017/12/batnhatamkinh.htm
2.
Vài nhận xét về vấn đề dịch lại Tâm Kinh của Thầy Nhất Hạnh - Lê Tự Hỷ, https://thuvienhoasen.org/a28974/vai-nhan-xet-ve-van-de-dich-lai-tam-kinh-cua-thay-nhat-hanh
3. Bản dịch Tâm Kinh Mới Bằng Văn Trường Hàng, Tâm KInh Tuệ Giác Qua Bờ HT. Thích Nhất Hạnh https://thuvienhoasen.org/a21491/tam-kinh-tue-giac-qua-bo
4. Robert E. Buswell Jr. & Donald S. Lopez, Princeton University Press (2014) The Princeton Dictionary of Buddhism của Robert E. Buswell Jr. & Donald S. Lopez
5. Sanskrit and Tamil Dictionaries; New and improved version of Monier Williams' Sanskrit-English Dictionary, http://www.sanskrit-lexicon.uni-koeln.de/scans/MWScan/tamil/index.html
6. F.Max Muller & Bunyiu Nanjio The Ancient Palm Leaves: Contaning The Prgana- Paramita- Hridaya -Sutra And The Ushnisha-Vigaya_Dharani, Oxford 1884” pp. 48-51
                             -----------------------------       

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/06/2018(Xem: 4632)
Sáng ngày 30/5/2018 vừa qua, một vị Thượng Tọa đã rất bức xúc và gởi cho người viết đường link vể cảnh múa và ăn mặc phản cảm của một vũ công trên sân khấu văn nghệ kính mừng Phật Đản ( “ Video: Làm lễ Phật Đản bằng màn nhảy nhót “hộp đêm” – VietBF). Liên tục những ngày sau đó chúng tôi tìm hiểu thêm chung quanh việc này nhưng không kết quả. (Ảnh cắt ra từ Clip).
23/05/2018(Xem: 16354)
Nam Mô A Di Đà Phật, Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni cùng quý Phật tử gần xa, Đây là hình ảnh Tượng Phật Nhập Niết Bàn đặt nằm chung lẫn lộn với các bức tượng lỏa thể đang được triển lãm tại Phòng Trưng Bày Nghệ Thuật Quốc Gia Úc tại tiểu bang Victoria ( National Gallery of Victoria, NGV), đây là hành động xúc phạm đối với tượng Phật và cộng đồng Phật Giáo tại Úc Châu. Mục đích của cuộc triển lãm này là họ muốn « mang các truyền thống văn hóa lại gần với nhau hơn », ý tưởng rất hay nhưng khi tạo dựng tác phẩm lại thiếu tính hiểu biết, phản cảm, phi nghệ thuật, nhất là không tôn trọng và xúc phạm đến Phật Giáo. Chúng con được biết, tại tiểu bang Victoria, một Giáo Hội Phật Giáo Úc (Buddhist Council of Victoria) đã gởi thư phản đối nhưng họ chỉ ghi nhận và không có bất cứ hành động nào, quả thật là rất buồn. Qua sư việc này, chúng ta thấy rằng tiếng nói của PG quá yếu, không đánh động được lương tâm của họ, nếu không muốn nói là họ quá xem thường cộng độ
26/03/2018(Xem: 5977)
Thảm kịch xảy ra lúc nửa đêm, mọi người có điện thoại đều xem một chút, bây giờ vẫn không quá muộn
17/03/2018(Xem: 5425)
Năm 1992, tại Hội nghị thượng đỉnh Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển tại Rio de Janeiro, Brazil, Liên Hợp Quốc đã quyết định lấy ngày 22/3 hằng năm là ngày Nước thế giới. Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã chỉ định ngày 22/3/1993 là ngày Nước thế giới đầu tiên và từ đó đến nay ngày này được tổ chức thường niên. Logo của Ngày Nước Thế Giới
14/03/2018(Xem: 4719)
Phần thứ ba này, quan điểm vị A la hán còn hoài nghi không? Đã được Thượng tọa bộ chất vấn, để bảo vệ quan điểm A la hán còn xuất tinh do “thiên ma tác động” tạo sự hoài ngi cho vị A la hán nên Đại Thiên xác nhận “vị A-la-hán còn hoài nghi”. Mặt khác, “vị A-la-hán còn hoài nghi” là một quan điểm khác của Đông Sơn Trú bộ và Tây Sơn trú bộ (hay của Đại Chúng Bộ). 8 vấn đề hoài nghi về chân pháp như: Hoài nghi Phật, hoài nghi Pháp, hoài nghi Tăng, hoài nghi đời quá khứ, hoài nghi đời vị lai, hoài nghi cả quá khứ lẫn vị lai và hoài nghi về lý duyên sinh. Thượng Tọa bộ chỉ buộc Đông Sơn trú bộ xác định “Vị A-la-hán có còn hoài nghi về Sơ quả, Nhị quả, Tam quả, Tứ quả không?” Và Đông Sơn trú bộ đã trả lời “không còn” Thượng Tọa bộ chỉ kết luận “mọi hoài nghi về chân pháp như: Hoài nghi - hoài nghi triền,hoài nghi cái, hoài nghi tùy miên, hoài nghi phiền não, hoài nghi về Y tương sinh… Tất cả hoài nghi này, vị A-la-hán không còn Theo Phật Quang đại từ điển giải thích:
14/03/2018(Xem: 6293)
Ấn tống kinh sách (cúng dường kinh sách) đem lại phước lạc, công đức lớn tuy nhiên nếu làm không đúng cách sẽ là một sự lãng phí. Bạn đã từng đem kinh sách đến chùa để cúng dường mà chùa không nhận hay chưa ? Vâng, đã có nhiều trường hợp như thế. Thông thường khi bạn phát tâm cúng dường kinh sách, hoặc tự mình chọn hoặc hỏi các Phật tử khác, hiếm khi hỏi quý thầy cô có kinh nghiệm nên ấn tống kinh sách gì? Từ đó ai khuyên bạn ấn tống kinh sách gì thì đi photo, in ấn hoặc đặt mua về cúng dường. Thiếu sót bắt nguồn từ đây dẫn đến tình trạng một số kinh quá dư thừa, một số kinh sách không phải là của Phật giáo chính thống, một số kinh sách băng đĩa khác cổ xúy cho những niềm tin không chân chính thậm chí là mê tín dị đoan chẳng đem lại lợi ích phước đức gì cả. Vậy làm thế nào để cúng dườngkinh sách Phật giáo đúng cách? Chúng ta có thể tự thẩm định thỏa mãn các điều kiện như sau: Nội dung nói về điều gì ? Kinh dùng để tụng hàng ngày trong khi sách để học, đọc tham khảo và thư
12/03/2018(Xem: 5906)
Đâu rồi biểu tượng của TP.Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh hiện nay ? Biểu tượng của một đất nước hay một thành phố hoặc tỉnh đều chọn một hình ảnh nào đấy gắn liền với lịch sử và truyền thống của địa phương đó, đặc biệt qua khía cạnh du lịch biểu tượng càng trở nên cần thiết để khi nhắc đến, người ta sẽ biết ngay đó là địa phương nào , với những đặc điểm gì . Nếu những địa phương mới thành lập, phần lịch sử hòa quyện lan tỏa thì người ta chọn đặc điểm văn hóa, hoặc những công trình mới xây dựng ,thậm chí ẩm thực để làm biểu tượng.
10/03/2018(Xem: 5379)
Tham vọng và luyến ái của con người vô biên. Nhân loại muốn làm chúa tễ của vũ trụ, và chúng ta đang cố tâm làm chủ tiến hóa hay nói theo thần quyền là cố tình cướp quyền tạo hóa để chế tạo ra thượng đế (God), ra Phật, và có thể tạo ra siêu quái với sức mạnh siêu nhân, thần thông quảng đại có khả năng, thăng thiên, độn thổ, biến hóa khôn lường, di sơn hải đảo, thay đổi lịch sử, định đoạt tương lai theo ý muốn, vì chúng ta “không chấp tử.” “Còn không” chấp tử thì “hết có” chấp sinh, đó là giải thoát khỏi sinh-tử-sinh. Những kỳ vọng trên cũng dễ dàng thôi chỉ cần giác ngộ rốt ráo là có ngay.
05/03/2018(Xem: 5417)
Báo Washington Post ngày 9/9/2017 đưa tin, Liên Hiệp Quốc nói rằng trong hai tuần qua, số người trốn chạy bạo động, vượt biên vào Bangladesh đã lên tới con số báo động là 270,000 người. (Ngày nay đã lên tới 700,000 người) Theo hãng thông tấn AP ngày 11/9/2017, chính phủ Bangladesh đã bằng lòng cung cấp đất để làm trại tạm trú cho 313,000 người tỵ nạn Rohingya đã tới đây từ 25/8/2017. Bà San Suu Kyi- lãnh đạo Miến Điện trên thực tế - sẽ không tham dự Đại Hội Đồng LHQ kéo dài từ 13/9/2017 tới 25/9/2017 nại lý do an ninh của đất nước. Bà đang bị chỉ trích về cuộc trốn chạy của người Hồi Giáo Rohingya.
24/02/2018(Xem: 4815)
“Do dự tha linh nhập” - là một trong 5 việc của Đại Thiên Cả năm điều của Đại Thiên được ghi chép trong Luận Bả-sa: – Vị A-la-Hán còn xuất tinh. – Vị A-la-hán còn vô tri. – Vị A-la-hán còn hoài nghi. – Vị A-la-hán còn được người khác chỉ điểm mới biết mình là A-la-hán. – Đạo xuất hiện nhờ tiếng khổ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567