Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân & Quả nhìn từ góc độ hoằng pháp

25/03/201706:36(Xem: 7862)
Nhân & Quả nhìn từ góc độ hoằng pháp

 
nhan qua

Nhân & Quả nhìn từ góc độ hoằng pháp



 

               1- TỪ CÁI NHÂN MÉO MÓ

 

Còn nhớ nửa đầu thập niên 90 thế kỷ trước, mỗi khi có tác phẩm nào nội dung liên quan đến Phật giáo thì phía bộ phận quản lý đều yêu cầu tác giả hoặc nhà xuất bản phải trình qua phía văn hóa, hoằng pháp Phật giáo để có phê duyệt rõ ràng, thì mới được cấp giấy phép thực hiện và phát hành rộng rãi. Quy định chặt chẽ ấy đã giúp và hỗ trợ Phật giáo rất nhiều trong việc hạn chế được những sai phạm vô tình hay hữu ý hiểu sai về Phật giáo. Việc làm tích cực này hiện nay đã không còn thấy nữa. Vì vậy từ khi thấy có xuất hiện quyển sách "Tranh Nhân Quả" do Sư Thầy Thích Chân Quang biên soạn ( từ đây xin đọc: Tác giả Chân Quang), nhà xuất bản Tôn Giáo ấn hành và nộp lưu chiếu quý II /2016 đến nay, không thấy có ý kiến phê duyệt của Phật giáo, cụ thể Ban Hoằng Pháp, Ban Văn Hóa GHPGVN thì nhiều người không lấy gì làm lạ nhưng kèm theo đó có nhiều ý kiến lo ngại về nội dung diễn đạt trong quyển tranh này. Tổng hợp các ý kiến đó là: Trước hết tác giả là một vị Sư Thầy lâu nay vốn có nhiều lời ra tiếng vào từ nhiều phía; thứ hai sự diễn đạt nhân quả quá hời hợt và dựa theo cảm tính chủ quan, rất xa rời với giáo lý nhà Phật, từ đây dễ gây hiểu lầm, thậm chí làm làm xấu đi hình ảnh Phật giáo trên bước đường hoằng hóa; thứ ba, xúc phạm, xem thường và làm tổn thương những người hành nghề lương thiện mà xã hội ngày trước hay khinh thường, nghiêm trọng nhất là khinh miệt thành phần người khuyết tật, những người vướng vào các tệ nạn, v.v... vốn luôn được xã hội tạo mọi điều kiện để họ có cơ duyên hòa nhập cũng như sinh sống bình đẳng như mọi người.


tranh Nhan Qua_thich chan quang

 *

tranh nhan qua-thich chan quang (1)
*
tranh nhan qua-thich chan quang (2)
*

tranh nhan qua-thich chan quang (3)


 Chúng ta đừng quên rằng theo thống kê gần đây nhất của Bộ LĐ - TBXH cả nước hiện có bảy triệu người khuyết tật, chiếm 7,8 % dân số, người khuyết tật đặc biệt nặng và nam chiếm 28,9 % , Người khuyết tật nữ 28.3 %, người khuyết tật là trẻ em 10,2 % và người cao tuổi chiếm 10 % ( diện hộ nghèo). Những con số tỷ lệ này luôn là mối quan tâm đặc biệt của nhà nước và cộng đồng, luôn tìm mọi phương cách nhằm hỗ trợ và giúp đỡ họ hòa nhập trong cuộc sống một cách bình đẳng, được tôn trọng lẫn nhau. Cũng vậy, những con người đang đổ mồ hôi, lao động một cách chân chính để nuôi sống gia đình và làm đẹp xã hội, từng bị khinh miệt như lao công quét rác v.v.. Tranh Nhân Quả cũng không ngần ngại mượn chiêu bài Nhân Quả để chỉ thẳng vào mặt họ đó là do quả báo. Đây chẳng khác nào hành động chỉ mặt đặt tên, liệu rằng đó có phải là việc làm mà cái "sở tri kiến" chưa được đong đầy, đang thiếu đạo đức trầm trọng lắm không ?

 

Ngày trước, chư Tổ Sư đặt ra những câu chuyện về "Nhân Quả Ba đời" phần lớn nội dung nhắm vào lối sống, cách sống méo mó của một bộ phận xã hội, nhằm hạn chế bớt các tệ nạn do chính cố tật họ tạo ra, giúp gia đình họ, bản thân họ và xã hội chung quanh được tốt đẹp. Đó không phải là cái Nhân & Quả thuộc mô típ lâu dài, rất vi tế, vi trần và biến chuyển theo từng duyên nghiệp, cần có tư duy rộng lớn mới thấu đạt; mà chỉ là chuyện Nhân và Quả của nhất thời. Ở đó có luật pháp thế gian, có lẽ phải công bình và đạo lý con người phân xử và ngăn chặn hữu hiệu. Điều này không phải là vô lý khi trong dân gian từng bức xúc:

"Ngày xưa nhân quả thì chầy,

Ngày nay nhân quả hiện ngay trước liền". 

Cái Nhân & Quả nào của thế gian tạo tác thì thế gian phải có trách nhiệm giải quyết với cái Nhân & Quả đó. Đó là những thủ pháp mang tính răn đe hoặc dùng đao to búa lớn là giáo dục xã hội âu cũng là một việc làm tốt. Thế mà ở đây lại gom lùa tất cả vào cái túi tri thức của mình rồi dán nhãn cho đó là "Chuyện Nhân Quả" thì đó không phải là việc làm của một Phật tử được Thầy Tổ dạy dỗ nghiêm mật, đàng hoàng.

Chợt nhớ, nếu trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật đã chỉ rõ:

 "Tâm như công họa sư

Họa chủng chủng ngũ ấm

Nhất thiết thế giới trung

Vô pháp như bất tạo

Như tâm Phật diệc nhĩ

Như Phật chúng sanh nhiên

Tâm Phật cập chúng sanh

Thị Tam vô sai biệt" .

Tâm là anh họa sĩ vẽ ngũ ấm thế gian -Vạn pháp duy tâm tạo- Giữa Phật và chúng sanh chẳng sai biệt, tuy có ba mà là một; thì với một trái tim thịt trần tục được mạo danh trái "Tâm" thì chỉ có vẽ lên bức tranh rối rắm cũng trần tục như bảng hiệu quảng cáo, chỉ lường gạt được những khách hàng ngu ngơ vì bị chóa mắt. Do vậy mà trong "Tranh Nhân Quả" không có so với "Nhân Quả Ba đời", là một vị sa môn tu hành sai lầm sẽ "bị " quả báo như thế nào để các người nhẹ dạ tin theo mà nghiền ngẫm lại lời Phật dạy trong kinh Viên Giác "Tà sư quá mậu/ Phi chúng sanh cữu/ Thị danh chúng sanh/ Ngũ tánh sai biệt". Hòa thượng Thích Thanh Từ giảng giải trong Thanh Từ Toàn Tập "Có duyên với tà mới dễ gặp tà. Người có duyên với chư Phật thì đến với đạo bằng trí tuệ chứ không phải bằng niềm tin. Đó là năm chủng tánh sai biệt của chúng sanh". Tất cả những hệ lụy từ đấy Phật giáo phải nai lưng ra hứng chịu một cách oan uổng.

   

                    

               2 - ĐỌC LẠI TRONG GHI CHÉP CŨ

 

Trong Kinh điển Phật giáo, rất nhiều lần Đức Thế Tôn đưa ra nhiều điều khó ở thế gian để qua đó tùy căn cơ bản nghiệp của mỗi chúng sanh mà thuyết hóa. Ở đây người viết xin mạo muội tóm gọn lại và rút ra thành bốn điều khó theo cảm nhận Phật pháp của mình: Thứ nhất - Được sanh vào thời có Phật là khó; thứ hai - Được làm thân người là khó; thứ ba - Được nghe pháp Phật là khó và thứ tư - Được gặp bạn đồng tu là khó. Với sở học của mình, người viết rất hạnh phúc khi nhận ra đã được đạt ba điều khó ấy, chỉ vô phước sanh không vào thời có Phật tại thế. Như vậy còn hơn người khác chỉ có một làm thân người, nhưng thân người thì kiếp thọ nghiệp đương nhiên không chắc bền trong mai sau.

 

Là một người có học Phật, ai không thuộc câu kinh "Dục tri tiền thế nhân. Kim sanh thọ giả thị. Dục tri lai thế quả. Kim sanh tác giả thị". Cái nhân con người hôm nay là câu trả lời cho ngày hôm qua và ngày hôm sau. Tuy nhiên, hãy bình tâm, đừng mơ tưởng mình sẽ lại được làm người một cách dễ dãi ở mai sau nếu không tiếp tục tinh tấn, vun trồng, bồi đắp phước duyên (nhưng nếu phước báu tràn đầy, nghiệp duyên đã mãn thì mai sau mình sẽ thọ sanh vào cõi khác rồi!) Ngày trước, trong các buổi giảng Chư Tôn Đức giảng sư hỏi một câu mà chẳng ai dám giơ tay lên để trả lời, đó là "Ai tin mình sau sẽ lại làm người?" Mang một thân thọ nghiệp, chưa kể cộng dồn phước báu hay tạo ác, kiếp sau sự luân chuyển không còn là hình thái một thân người mà là ở muôn vàn hình trạng khác. Ví như đòng điện chạy vào tủ lạnh thì nó trở lạnh, chạy vào lò vi sóng thì nó nóng hay vào bóng đèn thì nó tạo ra ánh sáng. Tương tự, dòng nước cũng vậy, chảy vào sông, vào lạch vào hồ ao và vào ống nước, vòi nước phải biến thể. Tất cả phải khác cho vừa thân nghiệp mình tạo tác. Đó 1à con đường tất yếu không chỉ riêng cho cõi này mà là của sáu cõi luân hồi, bắt đầu từ "ông Trời" trở xuống cho đến hàng súc sanh ( Thiên-Nhơn-A Tu La- Địa Ngục- Ngạ Quỷ- Súc Sanh). Địa ngục cũng vậy, đó là một nơi "Bất Như Ý Xứ", là một nơi u tối "Khả yểm", " Khả Cụ", "Bất lạc" v.v... Nhà mình cũng sẽ là địa ngục nếu liên tục xào xáo, lục đục không yên ( nhà gì mà như địa ngục) và người trong địa ngục ấy cũng chính là những người không đem lại niền hoan hỷ cho mình (Cái bản mặt như chúa ngục). Những cái cõi hay cảnh giới địa ngục ấy không phải của Đức Phật "có sáng kiến" lập ra để bắt nhốt những ai không theo mình mà đó chính là sự hiển nhiên trong cõi này vốn đã hiện hữu từ khi có sự sống. Nói một cách căn cơ hơn là nó chỉ có ở trong tư tưởng chấp hữu và chấp vô. Vì vậy nói tạo nhân và đến khi trả quả bằng một hình thức trừng phạt tương ứng nào đấy ở thế gian này là một lối nói không được lương thiện cho lắm, nhất là cái nhân ấy có từ...kiếp trước! Ngay như câu nói "Ngày xưa quả báo thì chầy/ ngày nay quả báo hiện ngay nhãn tiền" thật ra đó chỉ là diễn đạt của tâm cảnh bức xúc và bất lực trước nghịch cảnh, “muốn” kẻ ác phải bị như thế này như thế nọ theo ý muốn của mình mới ứng với tội gây ra mà thôi. Chớ quên rằng cuộc hành trình xoay vòng trong sáu nẻo luân hồi này, cái nghiệp, cái nhân vẫn theo miệt mài nan trải .  (Giả sử bá thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong. Nhân duyên hội ngộ thời,quả báo hoàn tự thọ).

 

Như chúng ta biết, theo quan điểm Phật giáo, giữa Nhân và Quả hằng bao nhiêu kiếp không mất mà vẫn thường còn và để giải quyết xong món nợ truyền kiếp này thì nó cần có một khoảng cách đáng kể do sự biến chuyển ( sám hối, làm điều thiện...) qua từng giai đoạn ( Dị thời nhi thục. 2. Dị biến nhi thục 3. Dị loại nhi thục.). Trong từng giai đoạn "quá độ" ấy chớ nóng vội, hay thắc mắc tại sao kẻ xấu vẫn ung dung sung sướng, người ngay lại vẫn chịu kham khổ, thiệt thòi. Học Phật luôn đòi hỏi hành giả sự tĩnh tâm và tri thức nhất định và luôn sẵn tinh thần từ bi, nỗ lực hết mình, tinh tấn bản thân và hoằng hóa tha nhân. Không nên đem tri thức hạn hẹp của mình nhìn Nhân Quả bằng sự thù ghét trần tục, diễn giải bằng chính nghiệp lực, "kiếp nạn" của mình rồi lại gán cho đó là giáo pháp Phật dạy thì tội lỗi biết bao nhiêu.

 

                3- ĐẾN VAI TRÒ HOẰNG PHÁP

 

Ngày xưa Đức Thế Tôn thuyết pháp dùng đến 12 thể tài ( phương pháp) rất đa dạng. Đứng đầu là Trường Hàm, Trường Tụng. Cô Khởi, Thí Dụ, Nhân Duyên, Tự Thuyết, Bổn Sanh, Bổn Sự v...v..cuối cùng là Vị Tằng Hữu. Chính phương pháp Thí Dụ và đặc biệt Vị Tằng Hữu sau cùng giúp cho nhiều đối tượng tiếp cận với Phật pháp nhiều hơn. Đó là một viễn cảnh mang đầy chất thần thoại, biến hóa cũng rất đa dạng, dễ dàng cho hành giả lồng vào các nội dung thuyết hóa của mình. Nhưng cho dù có thần thoại biến hóa ra sao, tựu trung những hình ảnh và nội dung đều không mang tính chất áp đặt hay hù dọa người nghe để thu phục, bởi vì chính chân lý và ánh sáng đạo giải thoát mà Phật tìm ra đã dư thừa biểu lộ tính ưu việt rồi, hé mở cho chúng ta nhiều cánh cửa thiết yếu. Từ đây qua nhiều giai đoạn hay từng quốc độ khác nhau, các nhà hoằng pháp tùy nghi lồng ghép vào thời pháp của mình bằng nhiều câu chuyện huyễn hoặc, vô thưởng vô phạt. Nhiều vị giảng sư còn cho đó là phương pháp tùy thuận (?) để rồi cái hệ quả "tùy thuận" này có dịp sống dai, sống lâu dài song song với giáo pháp chính thống của Đức Phật. Những thế hệ hoằng pháp kế thừa mai sau sẽ rất còn khổ cực để tách ra, minh bạch rõ ràng, một công việc chẳng đáng mất sức này, uổng phí biết bao thời gian tu học khác nữa!

 

Một thí dụ. Câu chuyện nửa dân gian nửa nhà Phật "Mục Liên - Thanh Đề". Lỗi lầm lớn nhất của các giảng sư trước đây là vì quá chạy theo phương pháp "Vị Tằng Hữu" của mình, vô tình tạo ra một câu chuyện Nhân- Quả Mục Liên Thanh Đề hết sức ly kỳ, khiến ai cũng thắc mắc và nguyền rủa các ông Tăng phát ngôn vô ý, tạo ra nghiệp khởi bà Thanh Đề. Ít có vị giảng sư nào bây giờ nói rõ cho phật tử biết rằng đó là tổng hợp của biết bao nhiêu tiền kiếp giữa bà Thanh Đề và Tôn giả Mục Kiền Liên, chứ không phải xuyên suốt đến "ly kỳ" như vậy. Và nhất là Giữa chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên trong chánh sử và câu chuyện trong "Mục Liên Sám Pháp" ( thuộc mô típ Sám Hối, Báo Ân ) của Trung Hoa khác nhau ra sao. Đó là một sai lầm lớn của chư vị hoằng pháp PGVN trước đây.

  

Ngày nay căn cơ và trình độ tri thức con người đã tiến bộ rất xa, chúng ta không còn cần phải dùng đến Thập Điện Diêm Vương để làm gì, vì song song đó đã có Thập Thiện Nghiệp Đạo với 10 giới thọ cao đẹp cho cả hàng xuất gia và cư sĩ tại gia. Hay cao hơn nữa là Thập Mục Ngưu Đồ Tụng và còn nhiều con số 10 trong giáo pháp Phật nữa. Nếu sợ đọa Tam Đồ thì mình còn có Tam Bảo để thực thi tâm nguyện ươm mầm chủng giống Từ Bi. Nếu sợ Ác Nghiệp thì mình còn có những cơ duyên tái tạo Thiện Nghiệp trong quá trình tu học, giải thoát bản thân v.v... Riêng con số 3 Thân-Khẩu-Ý trong kinh "Thập Thiện Nghiệp Đạo" hàm chứa những lý tánh và cũng là quả báo không cần nói ra. Thí dụ như Thân (tam) có 3 nghiệp ác: Sát sanh, trộm cướp, tà dâm - Khẩu (tứ) có bốn nghiệp ác: Nói dối, nói lời thêu dệt, lưỡi nói hai chiều, nói lời hung ác; - Ý (tam) có 3 nghiệp chính: Tham, Sân, Si .

Đó là thí dụ những điều cần lắm cho công tác hoằng pháp thời đại hôm nay, lý giải những điều cần thiết và có ích cho Phật pháp, hạn chế nói điều mình thích. Hoằng pháp thời đại hôm nay còn phải đứng trước thách thức lớn mang tính sống còn là phải dũng cảm đứng lên, góp tiếng nói, loại bỏ những hoằng pháp viên trá hình, bè nhóm, vì lợi ích cục bộ và bản thân, trả lại sự thanh cao của hạnh nguyện Phú Lâu Na, vì lợi ích Phật pháp, vì lợi ích của tha nhân. Mong rằng Ban Hoằng Pháp, Ban Tăng Sự, Ban Văn Hóa và Ban TTTT GHPGVN quan tâm sâu sát hơn và có tiếng nói kịp thời việc này.

 

Trần Dương - Như Tâm
(xem bài khác cùng chủ đề)

 

            

                 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/08/2014(Xem: 13263)
Theo tin trang mạng của Báo Giác Ngộ đăng ngày 24 tháng 7 năm 2014 thì chính quyền Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tại Thành phố HCM đã quyết định di dời tượng đài Danh Tướng Trần Nguyên Hãn và tượng đài Cố Liệt Nữ Quách Thị Trang trong Công Viên Quách Thị Trang trước Chợ Bến Thành đi nơi khác để xây dựng tuyến đường sắt. Riêng tượng đài Cố Liệt Nữ Quách Thị Trang thì theo bản tin này cho biết sẽ được đưa vào Viện Bảo Tàng Thành phố HCM.
11/08/2014(Xem: 9935)
Ngày 7 tháng 8 năm 2014, chúng tôi nhận được email của một vị Thượng tọa khả kính từ Úc Châu thông báo về một vị Sư, trụ trì một ngôi chùa ở thành phố San Jose, Bắc California đã trả lời phóng viên của trang điện báo Việt Vùng Vịnh về lá thư nặc danh tố cáo vị Sư này phạm tội sắc dục. Trong nội dung cuộc phỏng vấn, vị Sư này có nhắc đến “trang mạng …ở miền Nam (California) như … Thư Viện Hoa Sen …” (phút 4.08 đến 4.18 của Video phổ biến trên YouTube:http://www.youtube.com/watch?v=tyeUk_gf7ck). Vì có nhắc đến Thư Viện Hoa Sen (ở Nam California) đã tiếp tay loan tải lá thư nặc danh nói trên, nên chúng tôi đã tìm hiểu nội vụ và xuất xứ các nguồn tin, bởi lẽ Thư Viện Hoa Sen từ trước đến nay không hề loan tin nào, không hề bàn luận gì, không hề nói gì tới bất kỳ lá thư nặc danh nào về bất kỳ ngôi chùa nào dù trong hay ngoài nước.
05/08/2014(Xem: 6895)
Không phải ngẫu nhiên mà cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ (1904 – 1984)(1) cho ghi câu cổ ngôn người xưa vào ngay trang đầu của quyển Kinh Hiền Nhân do Ngài dịch thuật rằng: “Trường đồ tri mã lực Cửu xử thức Hiền Nhân” (Đường dài mới biết ngựa hay Ở lâu mới biết ai người Hiền Nhân) Bởi vì đây là bộ kinh gói gọn trong phương pháp xử thế mà xưa kia đức Thế Tôn đã ân cần khuyến hóa cho các vị quốc vương, hàng đệ tử và đặc biệt cư sĩ Tu Đạt. Giá trị và ý nghĩa của bộ kinh này luôn là bài học ngàn vàng cho nhân thế, đặc biệt với con nhà Phật đang sống, tu học cùng nhau trên mảnh đất đời người chật hẹp nhưng có vô vàn hiểm họa rình rập từng ngày. Vì thế, trong nhiều giới luật Phật chế, có rất nhiều những định thể chặt chẽ, ràng buộc như thể là thức ăn nuôi sống cho thân mạng này, để chư hành giả biết nương tựa vào nhau
04/08/2014(Xem: 6133)
Cho đdến khi dự án xây dựng tuyến xe điện ngầm (metro) Bến Thành-Suối Tiên được khởi công thực hiện vào trung tuần tháng bảy vừa rồi, và ngày 22/7 bắt đầu chặt các hàng cây cổ thụ trước nhà hát thành phố, người dân Sàigon mới biết công trường Quách Thị Trang trước chợ Bến Thành, trong có có tượng anh hùng dân tộc Trần Nguyên Hãn (?-1429) và đặc biệt tượng nữ Phật tử Quách Thị Trang (1946 – 1963) Pháp danh Diệu Nghiêm, học sinh trường tưmthục Trường Sơn , là đoàn sinh Gia Đình Pậht Tử Minh Tâm, cũng sẽ chung số phận buộc phải di dời. nhường không gian cho dự án nhà ga số 1.(ánh)
22/07/2014(Xem: 6950)
Xin các anh chị dành tặng cho 5 phút như một sự ban bố tình thương để nghe những điều tôi tha thiết muốn nói… Vừa đọc xong 1 số tin báo viết mà đau đáu lòng. Xin tha thiết cúi đầu trước các anh chị rất chân thành về 1 vấn đề share thông tin của tất cả chúng ta.. Gần đây có quá nhiều bài viết của báo không rõ nguồn gốc, không đủ bằng chứng cũng như không có giám định của cơ quan chức năng về vấn đề của Chùa hay Thầy. Và từ đó được chúng ta thẳng tay share đi khắp chốn bằng một cú click chuột mà không hề do dự thật hư thế nào..
18/07/2014(Xem: 15374)
Có một Phật tử gửi thư cho tôi và đặt câu hỏi về vấn đề quy y. Tôi xin ghi lại và trả lời, mong rằng có thể giải tỏa khúc mắc cho những người cùng cảnh ngộ. Nguyên văn lá thư: Kính bạch thầy, Đây là câu chuyên có thật 100% nơi con ở, nhưng con xin phép dấu tên những nhân vật trong câu chuyện.
13/06/2014(Xem: 5796)
Đất nước mình nằm tựa lưng với biển Đông, luôn được tắm mát bởi tinh thần và giá trị bốn ngàn năm văn hiến, một nửa trong đó là vốn sống, cách sống thắm đượm tinh hoa Phật giáo với hai ngàn năm un đúc nên mẫu người dân Việt hiền hòa nhân vị.
25/05/2014(Xem: 5615)
Thiền sư là người ra đi không để lại dấu vết, chính điều đó nói lên tinh thần thiền tông ( bất lập văn tự ), khiêm hạ, ẩn danh, vô ngã. Tuy nhiên có điều bất lợi so với cách luôn ghi chép từng biến cố nhỏ lớn, từng sự kiện nhỏ to, trong đời mình cũng như trong xã hội mình đang sống như người phương tây, nên Phật giáo Việt Nam chúng ta tư liệu thật nghèo thiếu một phần nữa là do ngoại nhân đưa về Kim Lăng đốt để huỷ diệt văn hoá, chính điều đó khiến tiểu sử các vị thiền sư lại càng sơ sài, ngắn gọn. Một vài trường hợp quá ngắn như tiểu sử thiền sư Pháp Thuận . Thiền uyển tập anh còn ghi lại tiểu sử Ngài tóm tắt như sau :
16/05/2014(Xem: 9038)
Năm nay Phật Giáo Việt Nam đăng cai tổ chức Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc –Vesak 2014 PL 2558, lần thứ hai trong 11 kỳ tổ chức kể từ năm 1999. Đây là sự kiện quan trọng luôn được sự quan tâm trong tinh thần phấn khích của tăng ni và Phật tử Việt Nam.
15/05/2014(Xem: 11650)
Tôi, một người công dân Việt Nam, không quyền chức, không giai cấp, không vị thế trong xã hội, thay mặt những người dân bình thường nhất, xin trang trọng kính đến quý ông lời chào TÌNH NGƯỜI. Thưa ông, gần đây trên các phương tiện truyền thông Quốc Tế đã phổ biến một quyết định của Đảng và nhà nước Trung Quốc về việc thành lập huyện Tam Đảo nhằm quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam chúng tôi. Đó là lý do chúng tôi kính đến quý ông lá thư nầy!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]