Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chứng ngộ và Vãng sanh Cực Lạc

22/01/201517:28(Xem: 9894)
Chứng ngộ và Vãng sanh Cực Lạc


Phat Di Da
Chứng ngộ và Vãng sanh Cực Lạc

 

 Soạn giả: NGUYỄN  XUÂN  CHIẾN

 

Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng  tại  sao  gần  đây,  ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộ và Vãng sanh khác nhau thế nào, và có gì chống trái giữa hai từ ngữ ấy?

Vãng sanh là mục tiêu chân chánh và khẩn thiết nhất của những người hướng đến đạo giải thoát và là ước mong  nhiệt  thành  của  hành  giả Niệm Phật, sau những năm tháng tu tập.

Trong giáo lý Nguyên thủy, để xiển dương  năng  lực thọ trì Bát quan  trai,  kinh  điển  Nikaya ghi rằng: “Một Phật tử nọ sau khi thọ trì Bát quan trai nửa ngày, đi ra khỏi tịnh xá và bị xe bò húc chết. Đức Phật  tuyên  bố  rằng, ông  ta  được thác sanh lên cõi Trời, nhờ vào công đức thọ  Bát quan  trai dù chỉ một buổi”.  (Trích The  Buddha and  His Teachings của Hòa thượng Narada, Phạm Kim Khánh dịch Đức Phật và Phật pháp)

Trong buổi sơ khai của đạo Phật, biết dân chúng vốn có thói quen của Bà-la-môn, (tập quán ưa thích sanh lên cõi trời) nên Đức Phật đã khuyến dụ các đệ tử tại gia là: thực hiện Bát quan trai thì được sanh Thiên (sanh lên cõi trời). Thật ra, ngay khi rời Bồ- đề đạo tràng, Ngài đã xác quyết mục tiêu là con đường  diệt tận khổ đau, phiền não và giải thoát  chúng  sanh khỏi luân hồi trong ba cõi, cho nên giáo lý “sanh Thiên” chỉ là giáo lý thi thiết tạm thời.

Do đó, nhiều  Phật tử đã nhầm  lẫn rằng, “Vãng sanh Cực Lạc” có ý nghĩa tương tự như thác sanh lên cõi Trời (thiên đường), nhưng có thể là một thiên đường khác! Ngay cả một số người theo pháp môn Tịnh độ cũng vậy, họ nhận thức cuộc đời là khổ não, giả tạm, chỉ đưa đến những kết quả ngoài ý muốn, nên họ phát tâm tịnh tu để lúc lâm  chung, được  Phật  rước về sống nơi an vui vĩnh hằng!

Thái độ này vẫn còn nhiều sơ sót. Lý do: thứ nhất,vẫn tỏ ra mình chưa hiểu mấy về ý hướng chân chánh của Phật khi ban tặng pháp môn Tịnh độ và danh hiệu A Di Đà cho tất cả chúng ta! Thứ hai,trong khi thực hành niệm Phật, họ đã quên gắn bó Bồ-đề tâm vào thái độ sống của mình. Mà kinh Hoa Nghiêm dạy: “Quên mất Bồ-đề tâm mà tu hành các thiện pháp, thì đó là hành động theo ma vương”. Thứ ba, đạo  Phật không  phải là một  tôn giáo  thần  quyền  luôn  hứa  hẹn  một cõi thiên đường khoái lạc sau khi chết để ru ngủ tín đồ, như lắm người lầm tưởng!

Do  những   khúc  mắc  như  vậy, chúng tôi đã cố gắng sưu tầm những kinh sách hiện có trong  tay, để tìm hiểu ý nghĩa của từ ngữ “vãng sanh Cực Lạc”, rồi đối chiếu với từ ngữ “chứng ngộ”. Và kính mong sự góp ý của chư vị thiện hữu tri thức.

“Vãng sanh Cực Lạc” có nhiều ý nghĩa:

1. Cực Lạc là cõi Tâm Linh, vãng sanh là đi về Cõi Tâm Linh

Có thể nói rằng, đạo Phật là đạo Tâm, cho nên cõi lý tưởng của nhà Phật tạm gọi là cõi Tâm. Cõi Tâm không có địa chỉ, chỗ đến (không phương sở), không tên gọi, không thể đo đạc, ước lượng được, chỉ cảm nhận mà thôi…Mà tâm rộng lớn như hư không, bao trùm cả pháp giới và nói nhỏ  thì nhỏ  hơn hạt  cải. Muôn sự không ngoài tâm. Điều này dường như khó hiểu đối với những người duy lý, những người tìm hiểu mọi sự qua suy luận, bằng cứ cụ thể, xác đáng. 

 

Đó gọi là “không thể nghĩ và bàn”, nghĩa là vượt lên trên mọi suy tư và diễn tả. Hình như cái gì gọi là Tâm Linh thì ta không thể sử dụng bất cứ phương tiện thế gian nào để nắm bắt, ngoại trừ cái trực cảm của mình và Cơ Duyên của mỗi người.

Thân Loan, Tổ sư Tịnh độ Chân tông Nhật Bản, cũng nói rằng: Cõi Cực Lạc của A Di Đà không phải là một thế giới vật chất được tìm thấy giữa các thiên hà xa xôi, mà chỉ là một trạng thái thanh bình hạnh phúc thực sự của Tâm Linh, vượt lên trên tất cả tư duy và diễn tả của thế gian tầm thường. (Trois Sutras et Un Traité sur La Terre Pure, Jean Eracle, Editions de Seuil, 1994)

Như vậy, vãng sanh Cực Lạc nghĩa là tái sanh về cõi của tâm linh của Phật, Bồ-tát.

2. Vãng sanh Cực Lạc là tên gọi khác của từ ngữ “đi vào Niết-bàn”

Theo lời dạy của Đức Phật, Niết-bàn đâu phải là một chỗ dành cho các linh hồn trú ẩn? Niết-bàn là trạng thái Giác Ngộ. Đức Phật Thích Ca đạt Niết-bàn khi giác ngộ, tại ngay thế gian này. Sau đó nhiều đệ tử của Ngài (Xá-lợi-phất, Tu- bồ-đề, Ma-ha Ca-diếp, Mục-kiền-liên, A-nan…) cũng  đạt Niết-bàn, trở thành A-la-hán, ngay khi còn sống.

Tổ Huệ Năng xác định Niết-bàn nằm ngay trước mắt ta (Pháp Bảo Đàn kinh). Người tu Thiền ở Nhật Bản đi từ trạng thái giác ngộ (satori) này đến giác ngộ khác, khi còn sống. Mặt khác, đạo Phật cũng có một trú xứ gọi là Cực lạc của Phật A Di Đà, dành cho những tâm linh niệm Phật trước khi lâm chung, nhưng  không phải là thiên đàng như mọi người hiểu.

Người tu Tịnh độ chỉ hướng vào Cực Lạc cũng như đắc Niết-bàn. Thật ra, chỉ khác nhau tên gọi chứ không khác nhau ở nội dung giải thoát. Vãng sanh Cực lạc tức là cách nói khác của “nhập Niết-bàn”. Vấn đề ở đây là Niết-bàn theo cấp độ nào, trình độ nào… thì tùy thuộc việc tu chứng của từng cá nhân.

3.  Vãng sanh Cực Lạc theo tông Tịnh Độ

Trong lời tựa bản dịch cuốn Hai thời công phu ngài
Trí Quang thượng nhân viết (khá cô đọng!): “Người tu pháp môn niệm Phật Tịnh độ thì hoặc sinh Cực Lạc rồi trở lại hoá độ ta-bà trước hết, hoặc sinh Cực Lạc ngay nơi ta-bà mà hóa độ trước, mặt nào cái nguyện sinh Cực Lạc cũng là vì thế giới ta-bà này, nên tôn giả A- nan đã nói, “ngũ trược ác thế thệ tiên nhập”.

Như vậy, vãng sanh Cực Lạc luôn luôn có hai ý nghĩa: chứng  ngộ và giải thoát.  Bởi vì đó là cốt lõi của đạo Phật, cho nên vãng sanh tức là: một, chứng ngộ và giải thoát ngay lúc lâm chung, gọi là lâm chung vãng sanh, hai, chứng ngộ và giải thoát ngay trong đời sống hiện tại, gọi là hiện tiền vãng sanh.

a) Lâm chung vãng sanh: Chứng ngộ và giải thoát ngay khi lâm chung, nghĩa là: Vãng sanh nghĩa là từ bỏ thân xác phàm phu nghiệp báo này, để tái sanh trong cảnh giới an lành của Cực lạc Tây phương. Mà Cực lạc Tây phương  là nơi an trú của Phật, Bồ-tát, với những thuộc tính Đại Từ Bi, Đại Trí Tuệ, Đại Giải Thoát, Đại Nguyện Lực… Cho nên cõi ấy không bao giờ là chốn yên nghỉ cho những tâm hồn sật sờ ngái ngủ, bệnh hoạn, mà ngược lại, đó là nơi tập kết của các tâm hồn thao thức, có chí rộng lớn, cường liệt, nhiệt thành, để cùng nhau tu tập dưới sự hướng dẫn và hộ trì của Phật, Bồ-tát. 

 

Hơn nữa, Cực lạc Tây phương mãi mãi còn là một thao trường vĩ đại để chúng ta rèn luyện bồ-đề  tâm, bồ-đề nguyện  trước khi bước vào con đường độ sanh vô cùng dài xa và khó nhọc. An lạc tập, ngài Đạo Xước ghi: “Hiện nay là đời có năm thứ trược ác, con đường tu tập của các bậc thông tuệ, giới đức (thánh đạo môn) thì nghĩa lý sâu xa, khó thực hành, không hợp thời cơ, chỉ có Tịnh độ môn (con đường  tu tập bằng  Đức Tin) là đạo lý quan trọng mà mọi người có thể cùng vào. 

 

Với lòng đại từ bi, Đức Phật khuyên chúng sanh nên cầu sinh Tịnh độ: dù cho một đời tạo ác, nhưng lúc lâm chung mà định ý, chuyên tâm, mười niệm liên tục tiếp nối nhau mà xưng danh hiệu Phật, thì tất cả chướng nạn được tiêu trừ, nhất  định được vãng sanh. Đây thuộc về tha lực dị hành đạo”.

Ngài Tỉnh Am đại sư, vị Tổ sư 11 của Tịnh độ Trung Hoa, dạy rằng: “Tu hành tại cõi thế gian này thì sự tiến đạo rất khó. Vì là khó, cho nên lắm kiếp chưa chắc đã hoàn thành. Vãng sanh cõi Cực Lạc thì sự thành Phật cũng dễ. Vì là dễ, cho nên một đời chắc chắn sẽ thực hiện được. Thánh giả ngày xưa, hiền nhân ngày trước, ai cũng quay đầu hướng về Tịnh Độ. Kinh cả ngàn, luận cả vạn, văn bản nào cũng chỉ lối cho chúng ta đến Tây phương”. Huống  chi đối với hạng  phàm  phu  chúng ta, thì vãng sanh Cực Lạc phải là con đường tất yếu vậy.

b) Hiện tiền vãng sanh

Nghĩa là chứng ngộ và giải thoát ngay khi còn sinh hoạt với tư cách một người bình thường. Khi còn đang mang xác thân nghiệp báo của con người mà đã giải thoát và chứng ngộ rồi, mặc dù thân còn ở đây nhưng tâm đã ở Cực Lạc. Theo giáo sư Suzuki, trong tác phẩm Thiền luận, thì vãng sanh là cải biến tâm linh, chuyển hóa tâm thức. Trong thế gian hỗn loạn và dơ bẩn này, từ thân tâm cho đến môi trường sinh hoạt, không có cái gì là chẳng bị nhiễm ô. 

 

Mục tiêu chân chính của đạo Phật vẫn là giúp chúng ta cải biến tâm thức của mình, vì khi tâm thức được chuyển hóa thì mọi sự sẽ được chuyển hóa ngay lập tức, và hành giả sẽ đạt Tam-muội (Sâmadhi) ngay trong đời sống. Đối với những người đầy đủ cơ duyên, thì họ có thể vãng sanh  ngay trong  đời sống  hàng  ngày, tuy báo thân  vẫn còn quanh  quẩn  trong  thế gian này nhưng tâm thức đã là người Tịnh độ.

4.  Theo  ngài  Suzuki:  “Chứng  tam-muội  và  vãng sanh là một”

Cuốn sách Thiền luận, nổi tiếng thế giới vì đã đem nhiều người Âu Mỹ đến ngưỡng cửa Thiền, tác giả của nó, Suzuki, là một nhà nghiên  cứu đồng  thời cũng là người tu thiền, đã viết:

“Thật ra, tam-muội và vãng sanh là một, nhưng được mô tả theo hai cách khác nhau. Nhưng vì tam-muội có thể đạt được trong đời sống này, còn vãng sanh có thể đạt được sau khi lâm chung. Nên phải nói tam-muội đồng nghĩa với vãng sanh theo một chiều hướng hoàn toàn đặc biệt, tức là chúng ta không nên coi vãng sanh như một biến cố khách quan  và tùy thời, mà là một thứ đoan quyết chủ quan của những gì chắc chắn phải diễn ra. Nếu vậy, vãng sanh chỉ cho sự tái tạo tâm linh, và theo đó, có thể cho là đồng nhất với tam-muội.

“Lòng tin phải được thiết lập vững chãi bằng sự thể hiện tam-muội, tin tưởng vào bản nguyện của Phật A Di Đà, nhờ đó hành giả vững tin vào số phận tương lai của mình. Bởi vì tam-muội được chứng đắc khi mà tâm hành giả hoàn toàn hợp nhất với tâm của Phật A Di Đà, ý thức nhị nguyên hoàn toàn bị xoá bỏ. Đây là một kết luận phải đến, không những  chỉ ở luận lý, mà cả trên phương diện sự thực. Rồi ra, tất cả kiến trúc của triết lý đạo Phật được đặt trên nhất nguyên luận duy tâm; mà thực tại luận của Tịnh độ cũng không thể biệt lệ.

“… Ta thấy rằng, niệm Phật hay danh hiệu hay Nam- mô A Di Đà Phật, là tâm điểm của đức tin. Khi thể nghiệm được điều này, kẻ sùng mộ đạt được “sự kiên cố của đức tin” ngay cả trước khi hắn thực sự được vãng sanh Tịnh độ. Vì vãng sanh Tịnh độ không còn là một biến cố sau khi chết, mà vãng sanh ở ngay trong cái “thế gian giới” này, cái thế giới của những đặc thù này”. (Thiền luận II)

5. Vãng sanh hay chứng ngộ?

Theo Chang Chen Chi (Trương  Thiền Trí) là một thiền sư, tác giả cuốn Thiền đạo tu tập, thì: “Đức Bổn sư thường  dạy chư vị Tỳ-kheo phải buộc tâm ý vào sáu chỗ buộc niệm, đó là Lục Niệm Xứ: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên. Từ chỗ buộc niệm này, người tu dần dần đi sâu vào chánh định Như Lai, tức là niệm Phật tam-muội. Lúc ấy, chúng ta muốn gọi trạng thái giải thoát ấy là gì cũng được, quan trọng chi đâu? Có thể gọi là Đốn Ngộ, vãng sanh, giải thoát, chứng quả, thành đạo… đều được cả”.

Gần đây, nhiều người có đầu óc phân biệt môn phái, thường rạch ròi giữa Thiền và Tịnh độ. Thật ra, về bản chất và điểm đến, thì hai pháp môn này không có gì chống trái nhau, vì cùng phát xuất từ một gốc chứng ngộ và giải thoát như nhau, chỉ khác phương thức tu trì mà thôi. Đại khái, Thiền chủ trương “Tức tâm tức Phật”, trong khi Tịnh độ chủ trương “Thị tâm tác Phật, thị tâm thị Phật”, như vàng ròng và vàng trang sức, tuy khác mà không khác, chỉ khác ở tên gọi và cách thể hiện bề ngoài. Còn nội dung đều là pháp tu chứng của nhà Phật cả, thì có gì đáng bàn đâu?

Hãy nghe lời dạy của Hư Vân hòa thượng khi ngài trả lời học giả John Blofeld.

Ông John  Blofeld là một  người Tây Âu đã lưu trú Trung Hoa nhiều năm để tu học, quen  thói phân  biệt chia chẻ, cho nên ông ta đã cho rằng Tịnh độ và Thiền là hai pháp môn hoàn toàn khác nhau, mà cái gì khác nhau thì không thể dung nhiếp lẫn nhau và hỗ trợ nhau trong việc hành trì (!). Ông ta đã may mắn diện kiến Ngài Hư Vân và đã nghe Ngài giải thích cặn kẽ như sau:

“… khi những dân quê hiền lành chất phác đến nghe ta nói pháp, phải chăng  ta sẽ giảng cho họ nghe  về Thực Tại Vô Ngã? về tánh Không? hay con đường  Bất Nhị? Những  điều  này có nghĩa  gì đối với họ? Phải chăng đó chỉ là những danh từ trừu tượng, trống rỗng, không thể hiểu và chẳng có ích lợi gì.

“Nhưng nếu ta giảng cho họ về Đức Phật A Di Đà, về bản nguyện tiếp dẫn của Ngài, về cõi Tây phương  Cực lạc, thì họ sẽ hiểu, sẽ tin và phát tâm muốn được sinh về cõi đó. Nếu suốt ngày họ trì niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật này thì khi làm ruộng, khi nghỉ ngơi, khi gặt lúa, lúc lùa trâu về chuồng, họ trì niệm cho đến lúc Nhất Tâm Bất Loạn, thì cái ảo ảnh nhị nguyên của vô minh, cái tâm phân biệt có chúng sanh có chư Phật, sẽ chấm dứt và họ sẽ chứng ngộ thực tại mầu nhiệm ngay. Dù người ta gọi đó là Vãng sanh Cực Lạc, gọi là Chứng ngộ, “tha lực tiếp dẫn của Đức A Di Đà”, gọi là Thiền, hoặc gọi là Nhất Tâm, thì điều này có gì khác biệt đâu?

Cái khả năng giải thoát mà người ta cho rằng vốn ở bên ngoài (tha lực), thật ra vẫn ở bên trong (tự lực), lúc nào cũng vẫn sẵn có kia mà!” (Trích The Wheel Of Life của tác giả John Blofeld, Nguyên Phong dịch, Ngọc sáng trong hoa sen).

6. Kết luận

Tóm lại, chúng ta tạm thời có thể nói: Thiền là pháp tu của những người sống bằng giới định. Còn Tịnh độ là pháp tu của những  người sống bằng tín tâm. Cho nên từ ngữ vãng sanh của Tịnh độ có ý nghĩa tương tự như từ ngữ chứng ngộ của Thiền tông, không hai không khác. (Nam-mô A Di Đà Phật chính là lòng tin để thành tựu tình cảm tôn giáo, vừa là năng lực phát triển giới định tuệ).

Từ lâu,Thiền tông và Tịnh độ tông dường như kết hợp với nhau rất nhuần nhuyễn trong hành trì, hình thức, nghi lễ… thể hiện Thiền Tịnh song tu suốt trên 1.000 năm nay tại Việt Nam, nghĩa là từ trước thời Lý Trần. Vả lại, điểm đặc sắc của người Việt Nam là không phân biệt môn tường, bè phái, cho nên khi một nhà sư thị tịch đúng chánh pháp, ta có thể nói: Ngài đã chứng ngộ (đắc đạo). Hoặc nói: Ngài đã vãng sanh Cực Lạc – đều thích hợp cả.

Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 124 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2011(Xem: 3018)
Phật Giáo Hoà Hảo được khai sáng từ năm 1939 trong dòng lịch sử cận đại của dân tộc - một nền đạo quy nguyên Phật pháp, với phương thức hành đạo đơn giản, không chuộng hình tướng lễ mễ, rườm rà mà cốt yếu hướng về tâm, chủ trương nhập thế tích cực vào mọi phương diện của xã hội, đã nhanh chóng phù hợp với phong hoá nhân sinh vốn mộc mạc, thuần phác ở vùng châu thổ sông Cửu Long.
23/02/2011(Xem: 3354)
Chính thức ra đời từ tháng 11-1926 với một lễ rất long trọng (gọi là Khai minh Đại đạo) tại chùa Gò Kén, làng Long Thành,[1] đạo Cao Đài dần dần hình thành những cộng đồng Cao Đài khác nhau trong lịch sử phát triển của nền tôn giáo bản địa mới mẻ. Mỗi cộng đồng bao gồm nhiều tín đồ với những sinh hoạt tu hành lâu đời kết tập. Sự thấm nhuần giáo lý và hàm dưỡng trong việc thực hành pháp môn trải qua thời gian mấy mươi năm đã hình thành những sắc thái riêng trong nếp nghĩ, trong hành vi, trong tình cảm của các tín đồ Cao Đài. Như vậy là có tâm lý của người tín đồ Cao Đài, nếu hiểu thật đơn giản rằng: Tâm lý là những đặc điểm về tình cảm và hành vi của một cá nhân, một nhóm người, hay một hoạt động.[2]
19/02/2011(Xem: 2973)
(VOV) - Hình ảnh những tảng thịt xâu, móc trên giá, máu còn nhỏ đỏ tươi, có miếng trơ xương, có miếng còn nguyên da lủng liếng ở một góc “chợ” trên đường vào Chùa Hương thật gây phản cảm cho người hành hương. Mới đây Đài Truyền hình Trung ương đã chiếu một phóng sự ngắn, lên tiếng về việc thịt thú rừng được treo, bày bán vô tội vạ gần thắng cảnh Hương Sơn. Hãy khoan nói về việc đó có thể là thịt thú rừng thuộc danh mục cấm săn bắn, việc có thể thú nhà giả thú rừng.v.v… Ở đây tôi chỉ muốn nói đến những hình ảnh gây phản cảm đối với khách hành hương.
19/02/2011(Xem: 3835)
Tôi chỉ là một Tu Sĩ tầm thường nhất, cho nên khi đọc những bài viết mang tính công kích, bài trừ mê tín về Hoa Trời. Tôi không chắc là Hoa Mạn đà la hay Mạn thù sa, cho nên tôi tạm gọi là Hoa Trời. Khi tôi nhận được các E-mail của Quý Ngài, cũng như vào các Websites thấy hình ảnh Hoa Trời, và nhất là lúc hành lễ Phật Ngọc có vòng hào quang xuất hiện trên trời. Lúc đó tôi rất mừng và vô cùng hoan hỷ để được chút Công Đức Tùy Hỷ. Vì mình không có góp công, góp của trong việc thỉnh Phật Ngọc Hòa Bình, nhưng có tâm tuỳ hỷ cũng được Tùy Hỷ Công Đức. Do đó, tôi thấy niềm tin của tôi phát khởi mạnh thêm, làm cho tôi tinh tấn thêm. Những Phật tử cũng điện thoại và E-mail cho tôi, thấy những hiện tượng này, làm cho gia đình họ vô cùng hoan hỷ và phát lòng tin mạnh mẽ để tinh tấn hơn. Những hình ảnh đó, đã có tác dụng làm cho bao nhiêu triệu người Phật tử trên thế giới vui tươi. Giúp họ rơi rụng đi biết bao nhiêu nhiệt não, bao nhiêu đau khổ bởi cuộc đời. Những hình ảnh ấy, đã làm cho tâm hồn h
19/02/2011(Xem: 3252)
Trong Ca Khúc Đông và Tây (The Ballad of East and West), văn hào người Anh Rudyard Kipling (1865–1936) đã viết “Ôi, Đông là Đông và Tây là Tây, cả hai chẳng nên hề gặp gở” (Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet) đã trở nên câu nói thời thượng diễn tã sự dị biệt khó hòa giải giữa hai nền văn hóa.
19/02/2011(Xem: 3592)
Ai đó dựng ra câu chuyện “sư cô trụ trì” cải đạo theo Chúa là người có tâm lý cạnh tranh tôn giáo kém lành mạnh, nếu không muốn nói là hành vi thiếu lương thiện, và những người lợi dụng tình cảnh đau đớn, lúc mê lúc tỉnh của bệnh nhân để đạt mục đích cưỡng đoạt niềm tin tôn giáo là phi đạo đức.
12/02/2011(Xem: 6631)
Có rất nhiều hình tượng để chúng ta hư cấu, mà thông qua đó gởi gấm tâm sự của mình, hay phê phán hoặc giáo dục thói hư tật xấu của xã hội. Phật, Bồ-tát và thánh tăng là những mẫu người toàn thiện của xã hội, những bậc vĩ nhân của nhân loại (chứ không phải của chủ nghĩa lý tưởng hóa).
23/01/2011(Xem: 3655)
Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác chính là tôn trọng mình. Ai đem sự tôn trọng đi thì nhận lại sự tôn trọng. Đó là định luật nhân quả. Người viết xin được mở đầu câu chuyện trong tuần kỳ này bằng câu thành ngữ “Cáo mượn oai hùm” thường ngụ ý để chỉ cho những người ưa lòe bịp, hù dọa mọi người bằng quyền uy của người khác để tự tung tự tác. Chuyện kể, có một con hùm đói bụng đang tìm cách săn mồi thì gặp ngay một con cáo. Cáo thấy nguy bèn nói: “Này anh hùm, anh đừng có ý định ăn thịt tôi. Trời đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Anh mà ăn tôi là làm trái ý của trời! Không tin, tôi đi đằng trước, anh đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Quả nhiên, khi cả hai cùng bước đi, mọi vật nhìn thấy đều chạy tán loạn. Con cáo lấy uy của trời để lừa hùm, rồi lại mượn hình ảnh của hùm để dương dương tự đắc với những loài vật khác.
08/01/2011(Xem: 3954)
Chẳng bao lâu nữa, đám lửa bùng lên từ Mỹ Đình kia, hay từ bất cứ tư gia nào, sẽ lan hết khắp mọi miền đất nước, và lan cả đến xung quanh chùa Quán Sứ, hay mỗi ngôi chùa khác. Mùa Noel năm nay, bên cạnh các hoạt động tưng bừng không khí ăn chơi, hội hè, mua bán thường thấy ngoài xã hội, chúng ta còn chứng kiến sự trỗi dậy của Tin lành, qua một loạt các sự kiện lễ hội mừng giáng sinh được tổ chức vào giờ chót khắp nơi trên đất nước, đặc biệt tại TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội.
06/01/2011(Xem: 4235)
Những người mưu toan cải đạo tín đồ Phật giáo sang các tôn giáo phương Tây luôn săn tìm những không gian thuận lợi để tổ chức thực hiện việc cải đạo. Tất cả mọi địa điểm đều được chú ý đến, đặc biệt là những địa điểm công cộng như trường học, bệnh viện, kể cả những không gian di động, nhưng có nhiều thời gian để hành sự, như xe đò đường dài, xe lửa…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567