Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người thế tục mặc đồ tu

05/08/201316:12(Xem: 7780)
Người thế tục mặc đồ tu

Phat tu vn

Tiếp tục câu chuyện

người thế tục mặc đồ tu



VẤN ĐỀ

Trước đây khá lâu, nhận được thông tin từ Phật tử, rằng một số chùa buộc người lễ Phật phải có áo tràng hoặc hình thức tương tự mới cho vào chánh điện; một số chùa cũng ràng buộc tương tự cho Phật tử ghi danh tham dự khóa tu, tôi đã định viết bài về việc này, đề cương đã sẵn sàng.

Tuy nhiên, sau khi nghe tôi trình bày ý tưởng, một vị tu sĩ đã can ngăn quyết liệt. Thầy cho rằng có nhiều lý do để không nên đề cập đến việc này. Có thể kể đến những lý do chính như:

- Đây là một hiện tượng “văn hóa”. Mà văn hóa là một vấn đề tế nhị.

- Đây là một vấn đề đã được sự nhất trí cao, từ liệt vị tôn đức, đến tăng ni Phật tử, trải qua nhiều thập kỷ. Đặt lại vấn đề quả là chuyện không hay!

- Tác dụng tích cực của việc người thế tục mặc đồ tu, hướng đến giá trị của đời sống tu tập, là một điều đã hiển nhiên. Ý kiến đặt lại vấn đề sẽ hết sức lạc lỏng!

Ngoài ra, một người bạn Phật tử cũng can ngăn, rằng tôi là Phật tử Nam tông (Phật tử Nam tông không mặc áo tràng), không nên bàn chuyện áo tràng xiên, áo vạt khách, nhật bình… của Bắc tông.

Những ý kiến như vậy đều có lý. Tôi vứt bỏ đề cương bài viết đã soạn.

Cho đến nay, khi báo Giác Ngộ đăng bài nêu vấn đề người thế tục mặc đồ tu, với nhiều dẫn chứng thí dụ về những trường hợp cười ra nước mắt, tôi thấy cũng đã đến lúc đặt lại vấn đề. Bài viết của tác giả Quảng Kiến nhìn vấn đề từ giáo lý Phật giáo, thì bài của tôi tìm một điểm nhìn khác, có tính chất xã hội hơn, nhưng đều tìm hiểu cùng một sự việc.

Y phục người tu mà tác giả Quảng Kiến xác định là các loại áo tràng xiên, vạt hò, nhật bình… và các mẫu trang phục khác màu lam, màu nâu mà người tu sĩ Phật giáo Bắc tông thường hay mặc. Tôi xin bổ sung cả y phục màu vàng nhiều sắc độ và các kiểu y phục chế tác từ mẫu áo tràng xiên, nhật bình, vạt hò, tạo phong cách áo tu sĩ, mà khi nhìn vào, nếu, nếu không chú ý, sẽ lẫm lẫn là y phục tu sĩ.

TIẾP NHỮNG VÍ DỤ BI HÀI

Hiểu lầm là một dạng hài kịch. Dạng lầm người thế tục thành tu sĩ do y phục gây ra chắc là không kể xiết.

Người đã là Phật tử thì chắc là khó bị lầm hơn, song người chưa am hiểu Phật giáo thì dường như việc lầm lẫn chiếm một tỷ lệ lớn, cũng có khi không lầm mà có ý trêu chọc việc người thế tục mặc y phục tu sĩ.

Tôi phải bổ sung những dạng y phục tương tự, chế tác từ y phục tu sĩ, vì những trường hợp tôi gặp phải đã không hẳn là mặc đồ tu sĩ Phật giáo thuần túy. Những tính chất của việc lầm lẫn thì hoàn toàn giống nhau, đều lầm ra… “thầy chùa”!

Mùa Phật đản vừa qua, người xe ôm chở tôi vứt một bịt nước vào những người nam nữ mặc áo lam ngồi trên xe nhìn xuống kênh nhiêu lộc. Anh này giải thích “Tôi ghét thầy chùa dẫn ni cô ra bờ sông tình tự”. Nhìn từ sau lưng, hai người nam nữ đội mũ bảo hiểm, mặc áo lam hơi dài một chút, thì cũng dễ lầm thành tu sĩ. Kiểu lầm như thế bất lợi cho người tu sĩ Phật giáo ở đủ mọi trường hợp: chạy ngược chiều, vượt đèn đỏ, ngồi ăn thịt nướng, mua gà quay, cút quay, đỏ mắt tía tai, gây lộn, chửi thề… (phần lớn là nam thanh niên).

Ngày nay, việc hớt tóc đầu đinh không còn là chuyện lạ, thậm chí việc cạo trọc bóng cũng là phổ biến, rồi mặc áo dạng nhật bình, tràng xiên, thì dù có cách điệu, cũng khó mà phân biệt tăng tục.

Đáng nói nhất là những trường hợp cố ý trêu chọc. Lần đi hội sách, một người bạn tôi đầu hớt cao, mặc áo nâu dạng chế tác từ áo nhật bình, nhưng cũng ngắn thôi, bị một bà già la lên là “Thầy chùa này ôm tôi!”, dù là có đến mấy người rơi vào tình trạng phải chen lấn xô đẩy quanh một bàn bày sách giảm giá.

Lập tức có người la lên “Coi chừng móc túi!”. Rồi ai đó chêm vào độc ác “Thầy chùa bây giờ ghê lắm!”. Từ đó, tôi cũng ngại mặc một áo thun nâu cổ tròn có hàng khuy ngắn vì tui cũng hớt tóc cao.

Nhưng có lẽ đáng nói hơn cả là việc một quán chay cho nhân viên từ đầu bếp, phục vụ bàn, đến giữ xe, bảo vệ, tiếp tân mặc áo nhật bình, tràng xiên màu nâu, lam. Trong số những thanh niên chạy bàn áo nhật bình có người hớt đầu đinh, đeo chuỗi ở tay, nhìn y hệt tăng sĩ Phật giáo, không cách gì phân biệt được. Một vài người phục vụ khác, cũng áo nhật bình nâu, người xăn tay áo tận vai, kẻ mở banh nút cổ, trông rất bặm trợn. Thậm chí, tôi thoáng thấy một hình xăm nhỏ ở cổ kiểu trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”. Thấy tôi để ý, người bạn mời tôi ăn chay nhà ở gần quán nói rằng có lần đám thanh niên chạy bàn phục vụ trong quán đánh lộn, đem cả dao phay, mã tấu, ghê rợn hơn giang hồ chùa Thiếu lâm. Tôi ngoắc cậu chạy bàn hớt đầu đinh mặc áo nhật bình gọi món mà trong lòng lúng túng, bối rối. Một người hình tướng y hệt tu sĩ Phật giáo bước tới lễ phép cúi chào, thưa dạ ngoan ngoãn: “Thưa quý khách gọi món gì ạ!” (!) Xa hơn, vài cậu thanh niên cũng trong màu áo nhật bình bàn chuyện hết giờ đi nhậu, cua gái!

Biết sao được, họ chỉ là lao động phổ thông được thuê mướn.

Bước ra về, lại thấy anh giữ xe mặc áo nhật bình tóc cao ngồi ăn bánh mì thịt!

TÁC ĐỘNG XÃ HỘI

Ở đây, chúng tôi không nói đến những tác động tích cực của việc người thế tục mặc đồ tu, vì ai cũng biết. Không có những tác động tích cực, thì làm gì có hiện trạng phổ biến như hôm nay.

Nhưng hôm nay, những tác động phụ ngoài ý muốn cũng đã được bộ lộ rõ ràng. Những tác dụng phụ ngoài ý muốn đó có thể nói là rất độc hại, đem đến những bất lợi không thể kể xiết cho Phật giáo Việt Nam.

Quá trình người thế tục mặc đồ tu có thể đã diễn ra trong dễ có đến nửa thế kỷ. So sánh những bức ảnh chụp hàng ngũ Phật tử trong lễ Phật đản 1964 và lễ Phật đản 2013 tại Sài Gòn-TPHCM, chúng ta sẽ thấy điều này:

- Trong lễ Phật đản năm 1964, số đông nam Phật tử mặc áo trắng, bỏ áo vào quần gọn gàng, một số người đeo cà vạt. Nữ Phật tử mặc áo dài.

- Trong lễ Phật đản năm 2013, số đông nam nữ Phật tử đều mặc áo tràng xiên màu lam. Trong cuộc lễ, người “thế tục” đã hầu như hoàn toàn mặc đồ tu.

Quần áo màu nâu, màu lam của tu sĩ Phật giáo cũng được Phật tử sử dụng 100% ở các khóa tu. Từ đó, có chùa bắt buộc phải mặc áo tràng xiên, áo nhật bình mới được vào chánh điện.

Thực chất của vấn đề là việc TRIỂN KHAI NHỮNG DẠNG ĐỒNG PHỤC CHO TÍN ĐỒ PHẬT GIÁO THEO MẪU Y PHỤC TU SĨ PHẬT GIÁO. Dạng đồng phục tín đồ theo hình thức y phục tu sĩ này đã có tại Việt Nam ở một vài tôn giáo bản địa nội sinh như Cao Đài, Hòa Hảo (thí dụ, ở đạo Cao Đài gọi là đạo phục, cụ thể là tôi không có đạo nhưng mặc áo dài trắng khăn đóng thì được vào bên trong Tòa thánh Tây Ninh khi có lễ, những người khác không mặc đạo phục thì không được, như tình trạng một số chùa Phật giáo hiện nay).

Dưới đây có thể kể đến những tác dụng phụ không mong muốn của dạng đồng phục tín đồ Phật giáo theo kiểu y phục tu sĩ:

- Lẫn lộn tăng tục. Đây là điều tệ hại nhất. Thời Đức Phật hiện tiền, ngài đã phân biệt rạch ròi chúng xuất gia và chúng tại gia. Nay cái ranh giới rõ ràng đó bị xóa bỏ.

Việc lẫn lộn tăng tục đó ắt đưa đến những hệ quả bi hài như trên dẫn chứng hay trong bài viết của tác giả Quảng Kiến. Điều đó sẽ tiếp tục, ngày càng phổ biến hơn, ngày càng gây tổn hại cho uy tín, danh dự, thể diện của người tu sĩ Phật giáo. Người thế tục mặc áo người xuất gia, sinh hoạt trong đời sống thế gian với hình tướng người xuất gia SẼ TẠO NÊN MỘT VẤN ĐỀ LỚN VÀ HẾT SỨC PHỨC TẠP ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO VIỆT NAM.

Đây là vấn đề sẽ ngày càng trầm trọng, với nhiều hình thức phức tạp hơn, thậm chí có thể có việc người thế tục trong y phục tu sĩ làm những việc xấu xa, cả đến mức vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng nặng nề cho tăng đoàn, cho giáo hội.

Vấn đề lẫn lộn tăng tục là vấn đề chưa từng có trong lịch sử Phật giáo theo chiều thời gian, và ở các nước Phật giáo trên thế giới, xét theo khía cạnh không gian. Ấy vậy mà nay nó lại hình thành và phát triển Việt Nam, lại xuất phát từ sự cố ý của toàn thể tăng ni Phật tử.

Vấn đề lẫn lộn tăng tục từ việc y phục ảnh hưởng đến một nguyên tắc, một phương châm, một mục tiêu căn bản của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đó là mục tiêu, phương châm “trang nghiêm giáo hội”, thường vẫn thấy trong khẩu hiệu các buổi lễ lớn, ở các hội trường Phật giáo.

“Trang nghiêm giáo hội” là điều không thể có được khi tăng tục lẫn lộn, sự phân biệt giữa tu sĩ và tín đồ bị xóa nhòa, mà dưới hình thức tu sĩ (áo tràng, đầu đinh) người ta có thể chửi thề, đánh lộn, cầm mã tấu rượt đuổi nhau như băng đảng xã hội đen.

Về phía tu sĩ, sự lẫn lộn đó mở đường để tạo hỏa mù che chắn cho những hành động phá giới hay mất trang nghiêm. Vì xã hội đã quen mắt đối với hành động như thế của người mặc áo nâu, áo lam.

Lẫn lộn tăng tục là điều mà kẻ xấu có thể lợi dụng, trước hết là làm sư giả để lừa đảo tiền bạc. Công thức: áo tràng (nhật bình, vạt họ) nâu ( lam) + tóc cao -> sư giả sẽ được áp dụng ngày càng rộng rãi. Điều oái ăm là ở vế đầu, từ nhà chùa, là điều Phật tử vẫn làm dưới sự khuyến khích của tăng ni. Bắt họ, nói họ dùng hình thức giả trang nhà sư thì họ nói chỉ trang phục theo kiểu nhà chùa dành cho Phật tử. Vậy là xong! Rồi chỉ cần ra đứng trước cửa chùa vào những ngày lễ, xòe ngửa bàn tay ra, những người đó trở thành những kẻ lừa đảo làm tiền hợp pháp! Hợp pháp vì nhà chùa gián tiếp tạo chỗ dựa cho họ, làm cho họ có cớ chạy tội.

Lẫn lộn tăng tục cung cấp, một cơ hội cho những kẻ muốn hủy phá Phật giáo. Họ có thể đưa hình ảnh tu sĩ Phật giáo lên tấu hài, lên kịch hề, hay lên phim băng đảng xã hội đen một cách không ngần ngại, không sợ bị bắt bẻ. Vì… có phải tu sĩ Phật giáo đâu? Mà chỉ là một đồng cô, một bóng cậu nào đó, hay một ông đạo, thượng sư… Thế là tha hồ bôi bẩn hình ảnh tu sĩ Phật giáo.

Bôi bẩn như thế cũng như kiểu Duy Tuệ: áo tràng xiên, đầu trọc. Vậy là đủ điều kiện hình thức lẫn lộn tăng tục, để nói chuyện Trần Nhân Tông và mạ lỵ Phật giáo.

- Đồng phục cho tín đồ theo kiểu trang phục tu sĩ mà chúng ta đang nói ở đây có tác dụng tạo một khoảng cách giữa tín đồ Phật giáo với cộng đồng xãhội. Điều này giống như tình trạng áo bà ba vạt hò nâu, áo bà ba vạt hò lam, tóc xi nhông ở tín đồ đạo Hòa Hảo, hay áo dài trắng khăn đóng đen ở tín đồ đạo Cao Đài.

Những chiếc áo tràng xiên, nhật bình lam nâu sẽ làm một hàng rào ngăn cách người Phật tử với số đông còn lại, dù trong số đông đó (mặc thường phục) vẫn có người là Phật tử. Điều đó, không có lợi cho Phật giáo. Trong khi các tôn giáo khác lại hướng đến sự hòa đồng, không ngăn cách, và lại có xu hướng biến những người mặc thường phục một cách nghiêm túc thành tín đồ của họ (thí dụ, chủ nhật, mặc áo sơ mi trắng bỏ áo vào quần hay áo dài thì có thể có người nghĩ đó là giáo dân đạo Ca tô La Mã).

- Đồng phục cho tín đồ Phật giáo theo dạng trang phục tu sĩ còn có tác dụng không tốt là tạo hình ảnh một Phật giáo thiểu số (cũng như đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo). Có lần tôi hỏi một em học sinh về Phật tử. Câu trả lời là những người mặc đồ nâu, đồ lam. Điều đó đúng, nhưng cũng không không đúng. Vì Phật tử đâu phải bao nhiêu đó! Tạo một cách hiểu như vậy là không có lợi cho Phật giáo.

MT

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2012(Xem: 14094)
Cái gọi là Đường Lưỡi Bò Nghe thật lạ, không vô Cũng không phải dưới đất chui lên Cũng không phải trên trời rớt xuống...
28/07/2012(Xem: 14598)
Biển Đông dậy sóng Đang đe dọa Việt Nam cùng Đông Nam Á Đường Lưỡi Bò là lưỡi hái xâm lăng...
19/07/2012(Xem: 5221)
Chính nghiệp lực là nguyên nhân của sự phân chia các loài, các loại người và loại vật. Không nên so sánh con người và con vật. Tuy nhiên một điều dễ nhận thấy, là rất nhiều con vật được sống sạch sẽ và tươm tất hơn một số con người, lại cũng có số người sống không bằng kiếp vật. Do vậy tình thương của Đức Phật như dòng nước tràn về miền sa mạc, những chỗ thấp có thể ví như con người nước thấm trước hết, sau đó [nước từ bi] tràn lên và thấm nhuần hết thảy những chỗ nhô cao hơn (được ví như cõi vật và các loài khác).
15/07/2012(Xem: 6730)
Trong tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số đặc biệt 144 - 145, ra ngày 1-1-2012, có đăng bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn, một bài viết có nhiều điểm liên quan đến vấn đề phiên dịch kinh điển. Với vai trò của một nhà nghiên cứu, dịch thuật kinh điển Phật giáo trong nhiều năm, tác giả Đào Nguyên đã nhận thấy bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn có một số điểm cẩn phải trao đổi. Nhân đây, xin trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Đào Nguyên đến quý bạn đọc.
10/07/2012(Xem: 5138)
Từ lâu, khi viết về các vương quốc ở Ấn Độ thời Phật, các học giả đã chú ý đến các yếu tố “dân chủ”trong chế độ các nưóc ấy. Tôi đọc, nhưng thú thực không hào hứng mấy, cứ nghĩ chuyện ấy đã thuộc quá khứ xa xăm. Lý thuyết mà không có thực tế diễn ra trước mắt thì chỉ thỏa mãn được cái đầu, không làm rung động trái tim. Máu tôi chỉ thực sự nóng lên từ khi tôi theo dõi cuộc tranh đấu cho dân chủ của bà Aung San Suu Kyi và sau đó tìm đọc những tác phẩm của bà. Bà đã làm sống lại lý thuyết, bà thở với lời Phật, tranh đấu với hồn Phật.
02/07/2012(Xem: 6614)
Cách đây khoảng 20 năm, phong trào học thiền Nhân Điện xuất hiện trong cộng đồng người Việt ở Mỹ rồi một thời gian sau đó truyền về Việt Nam mà người khởi đầu là ông Lương Minh Đáng, một người Việt di cư đến Mỹ năm 1985. Những người theo học được ông hoặc các người phụ tá giảng dạy khai mở luân xa, rồi sau đó có thể tự chữa lành bệnh cho mình và cho tha nhân, kể cả các căn bệnh như ung thư và tim mạch và có khả năng chữa bệnh cho bệnh nhân ở xa qua việc truyền nhân điện bằng điện thoại.
14/05/2012(Xem: 10185)
Đa số tiểu bang của Hoa Kỳ, hôn nhân vẫn được định nghĩa theo hiến pháp qui định là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Tính cho đến tháng 5 năm 2012, chỉ có sáu tiểu bang (Connecticut, Iowa, Massachusetts, Vermont, New York và New Hampshire), và thủ đô Washington DC, đã chấp thuận hôn nhân đồng tính (giữa một người nam với một người nam hoặc giữa một người nữ với một người nữ).
12/04/2012(Xem: 4572)
Bài viết này không đưa ra một đề xuất nào, đối với bất kỳ cơ quan nào, mà chỉ thử dự đoán những gì sẽ xảy ra nếu hiện tượng Duy Tuệ vẫn tiếp tục diễn biến. Việc dự đoán như sẽ được trình bày dưới đây là không mấy khó khăn khi căn cứ trên những gì đã diễn ra, với giấy trắng mực đen, rành rành trên những trang của quyển sách có nhan đề ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiều lầm sau hàng ngàn năm” (sau đây gọi tắt là “Ta là ai?”).
22/03/2012(Xem: 4712)
Những bức hình giúp bạn nhận ra triết lý cuộc sống.
19/03/2012(Xem: 6062)
*Chánh Pháp thời kỳ: là sau Phật diệt độ, mới bắt đầu 500 năm Chánh pháp.( Theo luận Tỳ bà sa Q18. Vì độ cho Nữ giới xuất gia, nên Chánh Pháp bị giảm còn 500) Chánh pháp, có nghĩa là ‘Chứng Pháp’. Thời kỳ này có pháp, có người tu, và có người chứng được pháp đã tu. Có đủ Giáo Hạnh. Chánh pháp tồn tại 500 năm, hết 500 năm là qua thời tượng pháp. *Tượng Pháp thời kỳ: , là sau Chánh pháp, Tượng pháp tồn tại được 1000 năm. Tượng có nghĩa là ‘vẫn giống’ như Chánh pháp, có giáo, có hạnh,có pháp để tu, nhưng ít người chứng ngộ. Hết 1000 năm Tượng-pháp, là vào thời kỳ mạt pháp. *Mạt Pháp thời kỳ : Là thời khởi đầu chuyển thành ‘vi mạt’, Pháp mạt tồn tại Mười Ngàn Năm (10.000). Chỉ có Giáo mà không còn Hạnh! Tệ hơn, nhỏ bé hơn, thời kỳ của hao mòn, teo tóp, suy vi, chánh tà lẫn lộn. Ngày nay, Tuợng pháp hết đã lâu. Mạt Pháp cũng đã trôi qua 1051 năm rồi, nhưng còn kéo dài 8.949 năm nữa thì “Mạt Pháp” chấm dứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]