Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đề Bà Đạt Đa kiểu mới

06/11/201216:36(Xem: 5457)
Đề Bà Đạt Đa kiểu mới

debadatda_1Thời Đức Phật còn tại thế, trong Tăng đoàn đã xảy ra nhiều hiện tượng lệch lạc về tư tưởng và hành động. Điển hình nhất trong nhiều trường hợp đó là sự phản bội lúc thì âm thầm lúc thì mãnh liệt của Đề Bà Đạt Đa.

Vị tu sĩ này đã luôn tìm cách làm suy yếu giáo hội do Đức Phật lãnh đạo bằng cách xuyên tạc tư tưởng của ngài. Xa hơn nữa, Đề Bà Đạt Đa còn công khai nói với Đức Phật là ngài đã già yếu rồi, nên nghỉ ngơi là vừa và ông khuyên Đức Phật nên ngừng việc hoằng pháp độ sinh, nên quán tưởng giáo pháp tối thượngmà ngài đã khám phá và giao trách nhiệm lãnh đạo Tăng đoàn lại cho ông!

Đối với những con người như Đề Bà Đạt Đa, đức Phật đã không hề ứng xử theo lối: “Im lặng như núi”. Ngược lại, ngài đã có lối ứng xử rất hợp thời và thực tế, ngài đã trả lời thẳng với Đề Bà Đạt Đa trước toàn thể hội chúng: "Này Đề-bà Đạt Đa, đừng bận tâm đến Như Lai làm gì, Như Lai sẽ biết lúc nào nên nghỉ ngơi. Hiện nay, Như Lai còn điều khiển được Tăng đoàn. Hơn nữa, khi thời điểm đến, Như Lai còn không giao quyền lãnh đạo tăng đoàn cho Xá-lợi-Phất hay Mục-kiền-liên, những bậc trí tuệ minh mẫn như ngọn đuốc sáng ngời. Còn ngươi, này Đề-bà Đạt Đa, sự hiểu biết của ngươi tầm thường quá, trí tuệ của ngươi không sánh bằng ánh đèn leo lét trong đêm!"

Đọc lịch sử các cuộc kết tập kinh điển, ta thấy rằng nguyên nhân của những cuộc kiết tập này của Phật giáo cũng không nằm ngoài mục đích là xác định rõ ràng đâu là giáo pháp thậm thâm vi diệu của Đức Phật, đâu là tà pháp điên đảo vọng tưởng của ngoại đạo.

Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng, ngay từ thời Đức Thế Tôn còn tại thế, và sau khi ngài vừa nhập Niết Bàn trong một thời gian ngắn thì hiện tượng tà ma ngoại đạo mặc Tăng bào đã xuất hiện.

Chính những Đề Bà Đạt Đa của Phật giáo này là mối nguy hại lớn lao nhất cho sự tồn vong của chính pháp.

Vì thế, với trí tuệ của một bậc: “thầy của trời và người”, đức Phật đã dạy chúng ta: “Chỉ có trùng của sư tử mới ăn được thịt của sư tử”. Thật vi diệu thay và đúng đắn thay lời dạy cao thâm của Đức Phật.

Theo dòng Phật sử, chúng ta thấy rõ ngay trong thời đại có thể xem là rực rỡ nhất của Phật Giáo Ấn Độ, hiện tượng tu sĩ Phật giáo ăn nói quàng xiên và không hiểu biết gì về giáo pháp của Đức Phật cũng hết sức phổ biến. Chính vì thế, dù rất đau lòng, nhưng với tấm lòng trung kiên hộ pháp, đích thân vua A Dục đã mở cuộc khảo hạch các vị tu sĩ Phật giáo về trình độ Phật Pháp.

Vua A Dục chỉ hỏi những câu cực kỳ cơ bản như: Đức Phật có thừa nhận bản ngã không?, Đức Phật có chấp nhận một linh hồn bất diệt không?

Đáng tiếc thay phần đông những vị: “mặc áo Như Lai, ăn cơm Như Lai, ngồi tòa Như Lai” ấy, lại có những câu trả lời hoàn toàn trái ngược với giáo pháp của Như Lai.

Với tinh thần quyết tâm hộ pháp tới cùng, vua A Dục đã quyết định ra lệnh lột y áo và đuổi những con người bất xứng này ra khỏi Tăng đoàn.

Phật giáo được truyền trực tiếp từ Ấn Độ sang Việt Nam bằng đường biển vào khoảng sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn khoảng 500 năm. Vài trăm năm sau đó, một dòng Phật giáo nữa được truyền vào Việt Nam từ Trung Quốc.

Kể từ đó, Phật giáo đã luôn đồng hành cùng với dân tộc Việt Nam. Phật giáo thực sự đã cùng vinh cùng nhục với dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam và Phật giáo Việt Nam có những giai đoạn như hòa nhập làm một với nhau, đó chính là lúc dân tộc ta cường thịnh nhất và Phật Pháp được tin, hiểu và hành một cách rộng rãi nhất.

Và chính trong những hoàn cảnh như vậy, Phật giáo đã đóng góp cho dân tộc Việt Nam và thế giới những nhân cách lỗi lạc và siêu việt như Thiền Sư Vạn Hạnh, Thiền sư Ngô Chân Lưu, vua Lý công Uẩn, Phật hoàng Trần Nhân Tông và vô số nhân cách sáng ngời khác nữa.

Nhưng vận nước không phải lúc nào cũng hưng thịnh, khi người Pháp sang xâm lược nước ta thì dân tộc ta rơi vào cảnh khổ đau nhục nhã và vì thế, lẽ tất nhiên Phật giáo cũng bị rơi cảnh suy tàn.

Trước nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn bởi các tôn giáo núp bóng ngoại nhân, các vị cao Tăng thạc đức của Phật giáo ngày đêm đau đáu tìm cách dựng lại ngôi nhà sắp sụp đổ của đức Như Lai.

Vì lý do đó, phong trào chấn hưng Phật giáo được hình thành, nhưng các vị Tăng sĩ thực sự dấn thân hoạt động để bảo vệ và xiển dương Phật Pháp cũng chỉ đếm gần vừa đủ trên đầu ngón tay. Còn lại đa số các tu sĩ Phật giáo lúc đó thì cũng vẫn giữ thái độ: “mũ ni che tai”, “quí hồ tinh bất quí hồ đa”, đúng như lối sống ích kỷ chỉ biết có lợi dưỡng bản thân theo kiểu Đề Bà Đạt Đa của họ.

Nhờ sự hy sinh xương máu của những cao tăng và những cư sĩ thực tu thực học, thực lòng tôn kính và hộ trì cho giáo pháp của Đức Như Lai, phong trào chấn hưng Phật giáo khắp trên toàn cõi Việt Nam lúc đó đã có những thành công rực rỡ.

Khi ông Ngô Đình Diệm nắm quyền lãnh đạo miền Nam Việt Nam, ông cùng anh em của ông và Phật tử cải đạo Trần Lệ Xuân đàn áp Phật giáo một cách khốc liệt và tàn bạo chưa từng có.

Trong lúc sinh mệnh của Phật giáo tưởng đã đến hồi chấm dứt thì Thượng Tọa Thích Trí Quang và cố Thượng Tọa Thích Thiện Minh và vài bậc cao Tăng đã phát động phong trào Phật giáo đấu tranh để bảo vệ chính pháp. Khi ngọn lửa thiêng của Bồ Tát Thích Quảng Đức cháy bùng lên ở ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt, thì cả thế giới mới chú tâm đến tình trạng đau thương của Phật giáo Việt Nam.

Để rồi từ đó, nhiều ngọn lửa thiêng nữa đã theo gương Bồ Tát Thích Quảng Đức làm chấn động lương tri của toàn thể nhân loại và phải trải qua biết bao nhiêu xương máu của chư Thánh Tử Đạo và chư Phật tử trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chính pháp thì Phật giáo mới tránh khỏi cảnh không bị tiêu diệt.

Trong cuộc đấu tranh này, thành phần cư sĩ thì rất hiếm thấy ai phản bội Phật giáo, còn trong thành phần tu sĩ thì có rất nhiều vị chống đối hai Thượng Tọa Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh và phong trào đấu tranh tràn đầy chính nghĩa của Phật giáo đến cùng.

Những Đề Bà Đạt Đa này gây ra đủ cản trở và xáo trộn, thậm chí họ còn nghe theo lời của ông Ngô Đình Nhu, thành lập một giáo hội tiếm danh Phật giáo Việt Nam, gởi thư đến hội Phật giáo quốc tế yêu cầu “lên án” những vị tu sĩ đang “lợi dụng” Phật giáo để tranh đấu này nọ!

Trong thế kỷ XXI, ngôi nhà của Như Lai lại một lần nữa đứng trước nguy cơ bị lấn lướt vì sự tấn công bằng sách lược cải đạovà nhiều sách lược tinh vi khác của các tôn giáo hữu thần.

Khi mà một người cực kỳ đức độ và ôn hòanhư Đức Đạt Lai Lạt Ma, vì lo lắng cho sự suy tàn của Phật Pháp, đã lên tiếng mạnh mẽ và quyết liệt chống lại việc cải đạo, thì lại có những Đề Bà Đạt Đa kiểu mới, xuất hiện với những phát ngôn cực kỳ nguy hiểm cho Phật Pháp như họ cho rằng việc cải đạo là không quan trọng, không có gì phải lo lắng, rằng những người quan tâm đến việc cải đạo là: “…suy nghĩ có phần hời hợt với chính đạo lý mình đang tu học.” “…Không khéo chúng ta bỏ chánh đạo để tập tễnh làm chánh trị thì chết dở…” .

Những Đề Bà Đạt Đa này không phá hoại trực diện Phật giáo, không có gì đáng chê trách về tuân thủ giới luật, thậm chí cũng có trình độ, nhưng lại có tư tưởng yếm thế, an phận, không dấn thân, tinh tiến trên con đường hoằng pháp độ sinh, để mặc hiện tượng tín đồ của mình dần dần bị cải đạo rơi vào tay tôn giáo khác. Đáng tiếc hơn, lại còn reo rắc tư tưởng an phận, yếm thế, ít hơn nhiều đó.

Đối diện với những Đề Bà Đạt Đa thời hiện đại, chúng ta phải ứng xử với họ như thế nào.

Thiết nghĩ, chúng ta là người con Phật, vì thế cách chúng ta ứng xử với những Đề Bà Đạt Đa của Phật giáo không gì hơn là cố gắng học theo gương ứng xử của Đức Phật và các vị Thánh Tăng. Đức Phật đã vạch trần bộ mặt tệ hại và kém cỏi của Đề Bà Đạt Đa trước toàn thể Tăng đoàn. Các vị Thánh Tăng đã chiến đấu không khoan nhượng với các Đề Bà Đạt Đa trong thời đại của quý ngài để bảo vệ chính pháp.

Đức Phật đã cất lên tiếng sư tử hống làm những kẻ phá hoại và tà ma ngoại đạo run sợ và họ phải cải tà quy chính.

Các bậc Thánh Tăng đã kiên quyết cầm gươm trí tuệ chặt đứt hết mọi tối tăm và mê muội.

Vậy thì chúng ta, nếu còn tự xem mình là đệ tử của Đức Phật là đệ tử của chư hiền Thánh Tăng thì hãy gánh vác lấy trọng trách nặng nề trong một cuộc chiến chống cải đạo không phân biệt rõ giới tuyến này để bảo vệ chính pháp. Đó là tự sửa mình theo lời Phật dạy, dấn thân đem Phật pháp đến tất cả mọi người bằng các phương tiện phù hợp.

Đó là nhận biết những chiến lược, thủ thuận cải đạo để có giải pháp ứng xử phù hợp

Chúng ta cũng không hộ trì, cúng dàng, nghe theo những Đề Bà Đạt Đa không tinh tiến trên đường hoằng pháp lợi sinh, phổ độ chúng sinh mà chỉ biết lợi dưỡng hoặc tự ru ngủ.

Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2011(Xem: 3066)
Phật Giáo Hoà Hảo được khai sáng từ năm 1939 trong dòng lịch sử cận đại của dân tộc - một nền đạo quy nguyên Phật pháp, với phương thức hành đạo đơn giản, không chuộng hình tướng lễ mễ, rườm rà mà cốt yếu hướng về tâm, chủ trương nhập thế tích cực vào mọi phương diện của xã hội, đã nhanh chóng phù hợp với phong hoá nhân sinh vốn mộc mạc, thuần phác ở vùng châu thổ sông Cửu Long.
23/02/2011(Xem: 3410)
Chính thức ra đời từ tháng 11-1926 với một lễ rất long trọng (gọi là Khai minh Đại đạo) tại chùa Gò Kén, làng Long Thành,[1] đạo Cao Đài dần dần hình thành những cộng đồng Cao Đài khác nhau trong lịch sử phát triển của nền tôn giáo bản địa mới mẻ. Mỗi cộng đồng bao gồm nhiều tín đồ với những sinh hoạt tu hành lâu đời kết tập. Sự thấm nhuần giáo lý và hàm dưỡng trong việc thực hành pháp môn trải qua thời gian mấy mươi năm đã hình thành những sắc thái riêng trong nếp nghĩ, trong hành vi, trong tình cảm của các tín đồ Cao Đài. Như vậy là có tâm lý của người tín đồ Cao Đài, nếu hiểu thật đơn giản rằng: Tâm lý là những đặc điểm về tình cảm và hành vi của một cá nhân, một nhóm người, hay một hoạt động.[2]
19/02/2011(Xem: 3031)
(VOV) - Hình ảnh những tảng thịt xâu, móc trên giá, máu còn nhỏ đỏ tươi, có miếng trơ xương, có miếng còn nguyên da lủng liếng ở một góc “chợ” trên đường vào Chùa Hương thật gây phản cảm cho người hành hương. Mới đây Đài Truyền hình Trung ương đã chiếu một phóng sự ngắn, lên tiếng về việc thịt thú rừng được treo, bày bán vô tội vạ gần thắng cảnh Hương Sơn. Hãy khoan nói về việc đó có thể là thịt thú rừng thuộc danh mục cấm săn bắn, việc có thể thú nhà giả thú rừng.v.v… Ở đây tôi chỉ muốn nói đến những hình ảnh gây phản cảm đối với khách hành hương.
19/02/2011(Xem: 3916)
Tôi chỉ là một Tu Sĩ tầm thường nhất, cho nên khi đọc những bài viết mang tính công kích, bài trừ mê tín về Hoa Trời. Tôi không chắc là Hoa Mạn đà la hay Mạn thù sa, cho nên tôi tạm gọi là Hoa Trời. Khi tôi nhận được các E-mail của Quý Ngài, cũng như vào các Websites thấy hình ảnh Hoa Trời, và nhất là lúc hành lễ Phật Ngọc có vòng hào quang xuất hiện trên trời. Lúc đó tôi rất mừng và vô cùng hoan hỷ để được chút Công Đức Tùy Hỷ. Vì mình không có góp công, góp của trong việc thỉnh Phật Ngọc Hòa Bình, nhưng có tâm tuỳ hỷ cũng được Tùy Hỷ Công Đức. Do đó, tôi thấy niềm tin của tôi phát khởi mạnh thêm, làm cho tôi tinh tấn thêm. Những Phật tử cũng điện thoại và E-mail cho tôi, thấy những hiện tượng này, làm cho gia đình họ vô cùng hoan hỷ và phát lòng tin mạnh mẽ để tinh tấn hơn. Những hình ảnh đó, đã có tác dụng làm cho bao nhiêu triệu người Phật tử trên thế giới vui tươi. Giúp họ rơi rụng đi biết bao nhiêu nhiệt não, bao nhiêu đau khổ bởi cuộc đời. Những hình ảnh ấy, đã làm cho tâm hồn h
19/02/2011(Xem: 3323)
Trong Ca Khúc Đông và Tây (The Ballad of East and West), văn hào người Anh Rudyard Kipling (1865–1936) đã viết “Ôi, Đông là Đông và Tây là Tây, cả hai chẳng nên hề gặp gở” (Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet) đã trở nên câu nói thời thượng diễn tã sự dị biệt khó hòa giải giữa hai nền văn hóa.
19/02/2011(Xem: 3677)
Ai đó dựng ra câu chuyện “sư cô trụ trì” cải đạo theo Chúa là người có tâm lý cạnh tranh tôn giáo kém lành mạnh, nếu không muốn nói là hành vi thiếu lương thiện, và những người lợi dụng tình cảnh đau đớn, lúc mê lúc tỉnh của bệnh nhân để đạt mục đích cưỡng đoạt niềm tin tôn giáo là phi đạo đức.
12/02/2011(Xem: 6682)
Có rất nhiều hình tượng để chúng ta hư cấu, mà thông qua đó gởi gấm tâm sự của mình, hay phê phán hoặc giáo dục thói hư tật xấu của xã hội. Phật, Bồ-tát và thánh tăng là những mẫu người toàn thiện của xã hội, những bậc vĩ nhân của nhân loại (chứ không phải của chủ nghĩa lý tưởng hóa).
23/01/2011(Xem: 3690)
Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác chính là tôn trọng mình. Ai đem sự tôn trọng đi thì nhận lại sự tôn trọng. Đó là định luật nhân quả. Người viết xin được mở đầu câu chuyện trong tuần kỳ này bằng câu thành ngữ “Cáo mượn oai hùm” thường ngụ ý để chỉ cho những người ưa lòe bịp, hù dọa mọi người bằng quyền uy của người khác để tự tung tự tác. Chuyện kể, có một con hùm đói bụng đang tìm cách săn mồi thì gặp ngay một con cáo. Cáo thấy nguy bèn nói: “Này anh hùm, anh đừng có ý định ăn thịt tôi. Trời đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Anh mà ăn tôi là làm trái ý của trời! Không tin, tôi đi đằng trước, anh đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Quả nhiên, khi cả hai cùng bước đi, mọi vật nhìn thấy đều chạy tán loạn. Con cáo lấy uy của trời để lừa hùm, rồi lại mượn hình ảnh của hùm để dương dương tự đắc với những loài vật khác.
08/01/2011(Xem: 4046)
Chẳng bao lâu nữa, đám lửa bùng lên từ Mỹ Đình kia, hay từ bất cứ tư gia nào, sẽ lan hết khắp mọi miền đất nước, và lan cả đến xung quanh chùa Quán Sứ, hay mỗi ngôi chùa khác. Mùa Noel năm nay, bên cạnh các hoạt động tưng bừng không khí ăn chơi, hội hè, mua bán thường thấy ngoài xã hội, chúng ta còn chứng kiến sự trỗi dậy của Tin lành, qua một loạt các sự kiện lễ hội mừng giáng sinh được tổ chức vào giờ chót khắp nơi trên đất nước, đặc biệt tại TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội.
06/01/2011(Xem: 4289)
Những người mưu toan cải đạo tín đồ Phật giáo sang các tôn giáo phương Tây luôn săn tìm những không gian thuận lợi để tổ chức thực hiện việc cải đạo. Tất cả mọi địa điểm đều được chú ý đến, đặc biệt là những địa điểm công cộng như trường học, bệnh viện, kể cả những không gian di động, nhưng có nhiều thời gian để hành sự, như xe đò đường dài, xe lửa…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567