Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”

05/08/201316:02(Xem: 7118)
Phật trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”

Sakya_Muni_17


Phật trong phim “Bụi đời Chợ Lớn

Minh Thạnh

Tôi viết bài này không phải chỉ vì lưu luyến với nghề cũ, nghề lý luận phê bình điện ảnh, nghề mà tôi được đào tạo, nhưng không có nhân duyên được làm nghề, mà trên hết là vì muốn nhấn mạnh với bạn đọc vai trò của tôn giáo, mà ở đây là Phật giáo, trong đời sống của con người, kể cả ở những mảnh đời khốn nạn nhất, như cuộc sống của những tên bụi đời, du đãng, xã hội đen, với những trường hợp cụ thể trong phim truyện “Bụi đời Chợ Lớn”.

BẠO LỰC!

Bụi đời Chợ Lớn” là một bộ phim hành động của các đạo diễn Charlie Nguyễn và Johnny Trí Nguyễn. Phim này đang thu hút sự quan tâm cao độ của khán giả điện ảnh hiện nay, có lẽ đến mức chưa từng có. Một phần vì phim đã được quảng cáo với cường độ cao. Phần khác, vì phim bị cấm chiếu sau một cuộc duyệt nhiều tranh luận, rồi bị ai đó tung lên mạng bản nháp. Bản được tung lên mạng đã thu hút số người xem kỷ lục ở nhiều trang web. Dĩa phim in lậu cũng được phát hành mạnh, càng nâng cao số lượng khán giả. Việc quan tâm của chúng tôi là vì ảnh hưởng của bộ phim “Bụi đời Chợ Lớn” đến khán giả rất lớn, dù là chỉ theo kiểu phát hành như vậy.

Dù sao thì hàng nhiều triệu khán giả đã xem phim “Bụi đời Chợ Lớn”, dù phim bị cấm chiếu. Vì vậy, dù muốn, dù không, phim cũng vẫn là một đối tượng của giới phê bình điện ảnh. Việc cấm chiếu phim, xem ra, còn làm cho khán giả và những nhà phê bình quan tâm đến bộ phim.

Việc cấm chiếu bộ phim, có thể coi là một sự tiêu hủy bộ phim, mục tiêu là cách ly hoàn toàn tác phẩm điện ảnh với khán giả, trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, rõ ràng là không hiệu quả.

Phim “Bụi đời Chợ Lớn” bị cấm chiếu vì lý do chính là bạo lực. Là người Phật tử, chúng ta phản đối bạo lực trong tác phẩm nghệ thuật. Nhưng đây đã là một thực tế phải chấp nhận, vì làm sao phim hành động mà không thể không có bạo lực? Riêng tôi, tôi nghĩ đâm chém theo kiểu phim “Bụi đời Chợ Lớn”, với số người chết trong mỗi trận hỗn chiến chỉ là con số vài ba chục người, vẫn còn dễ chấp nhận hơn rất nhiều so với những bộ phim nhấn nút kích hoạt vũ khí nguyên tử, điều động siêu pháo đài bay ném bom tấn, nã pháo bằng dàn đại bác cả trăm khẩu… Những phim như thế bạo lực hàng ngàn lần, so với bạo lực chỉ bằng dao phay, mã tấu trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, nhưng bây giờ, cứ lượt qua các kênh truyền hình cáp, thì vẫn thấy nhan nhản kiểu bạo lực giết người hàng loạt đó.

Ấy là kiểu bạo lực, mà những tên giết người không là những gã ít học, lưng nách, cục súc, dơ dáy như trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, mà kẻ giết người là những tiến sĩ, kỹ sư, mặt mày sáng láng, lịch sự, nho nhã, với phương tiện giết người là những thành tựu khoa học tiên tiến. Những kẻ giết người đó ngồi trước máy vi tính, khai hỏa hỏa tiễn bằng một cái nhấp chuột. Như thế, mới là đỉnh điểm bạo lực, chứ không phải đấm nhau, chém nhau, như thời trung cổ.

Ngoài ra, còn có vấn đề bạo lực chính nghĩa và bạo lực phi nghĩa, bạo lực hại người và bạo lực để tìm sự bình an. Không thể đánh đồng mọi thứ bạo lực như nhau.

Theo chúng tôi, bạo lực trong phim “Bụi đời Chợ Lớn” là bạo lực để tìm sự bình an chống lại bạo lực phi nghĩa. Ở đây bạo lực có cái điều, mà đạo diễn bộ phim đã nói, là thông điệp chống băng đảng, có thể hiểu là thông điệp chống bạo lực.

Vì vậy, bộ phim là tiếng nói của những người trong vòng bạo lực muốn trốn chạy ra khỏi bạo lực. Trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, những kẻ trốn chạy khỏi bạo lực đã tìm đến Phật. Đó là điều bài phê bình này muốn nói đến.

Trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, có 2 trường đoạn miêu tả việc tìm đến tín ngưỡng của những người muốn trốn chạy khỏi bạo lực. Trong một trường đoạn, nhân vật Lâm tìm đến một đền thờ người Hoa để cầu khấn, nhưng đối tượng cầu khấn không phải là Phật. Ở một trường đoạn khác, nhân vật Hùng Bi da thắp hương trên bàn thờ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát trước cuộc tử chiến với Phong Bụi. Bài viết này muốn nói đến Phật ở đây.

TRƯỚC ĐÂY CHỈ CÓ TÌNH YÊU TRONG CUỘC CHẠY TRỐN BẠO LỰC

Mô típ những người trong vòng xoáy bạo lực chay trốn khỏi bạo lực đã có trong văn học nghệ thuật miền Nam từ trước năm 1975. Tiêu biểu cho xu hướng này là nhà văn Duyên Anh, với các tác phẩm như “Luật hè phố”, sau chỉnh sửa thành “Con suối ở Miền Đông”, “Điệu ru nước mắt”… Ý tưởng từ dòng tác phẩm này được dựng thành một số phim truyện đã từng gây xôn xao trong giới kịch trường điện ảnh Sài Gòn một thời, như “Vết thù trên lưng ngựa hoang” (còn lưu hành nhạc phim), “Điệu ru nước mắt”, “Xa lộ không đèn” (còn lưu hành nhạc phim). Lúc đó, tôi còn nhỏ, chỉ đọc một số tác phẩm. Truyện cũng như phim cùng đều xem cách đây đã 40 năm, việc nhắc lại tất nhiên sẽ có điểm không chính xác.

Truyện của Duyên Anh miêu tả những pha đâm chém rất ác liệt của băng đảng, những cái chết đầy hãi hùng, thương tâm, bi tráng. Còn poster phim “Vết thù trên lưng ngựa hoang” do diễn viên Trần Quang đóng vai chính thì na ná poster phim “Bụi đời Chợ Lớn”. Cho nên xem phim “Bụi đời Chợ Lớn”, tôi nhớ ngay đến tác phẩm Duyên Anh, nghệ sĩ Trần Quang, phim và bài nhạc “Vết thù trên lưng ngựa hoang”…

Người ta chỉ chạy trốn khi hoàn cảnh sống quá nghiệt ngã khủng khiếp. Vì vậy, các nhà văn, đạo diễn theo ý tưởng sáng tác này đương nhiên phải miêu tả, phải trình bày bạo lực ở đỉnh điểm của sự ác nghiệt, tàn bạo, nhẫn tâm. Từ đó, mới phát sinh bi kịch và bi kịch mới thuyết phục đối với người đọc, với khán giả. Và khi đó số phận của những con người muốn chạy trốn khỏi bi kịch mới là những số phận bi kịch.

Nếu bạo lực, đâm chém trong phim, trong truyện chỉ là cuộc xô xát vui đùa, thì người ta cứ việc đùa vui với nó, việc gì phải vùng vẫy chạy trốn như trong “Vết thù trên lưng ngựa hoang” hay trong “Bụi đời Chợ Lớn”. Ở đây, chúng ta cần chú ý đến tính triết lý của vấn đề. Nó giống như muốn người ta tìm cách thoát khổ, thì phải miêu tả cái khổ ở mức có tác động cùng cực của nó. Chúng tôi mong khán giả xem phim “Bụi đời Chợ Lớn” hay đọc truyện Duyên Anh với tinh thần này, và cũng là điều muốn gửi đến những người có trách nhiệm duyệt những phim loại như phim “Bụi đời Chợ Lớn” hôm nay. Cái mô típ nghệ thuật này có triết lý của nó. Và từ cái nhìn của một Phật tử, tôi thấy nó không khác gì với cách trình bày cái khổ của đạo Phật. Bạo lực trong những tác phẩm nghệ thuật như vậy không gì khác hơn phải là một cái chảo lửa khủng khiếp của địa ngục, làm người đọc, người xem và cả những người có trách nhiệm duyệt phim, phải kinh hoàng, phải sốc!

Trên cái nền đó, nhà văn hay đạo diễn tạo dựng hành động chạy trốn. Và tiểu thuyết, bộ phim… chính là câu chuyện cuộc chạy trốn, cuộc vùng thoát khỏi chảo lửa đó. Tính nhân văn của loại tác phẩm mà chúng ta đang bàn luận nằm ở chỗ này.

Lời của tác phẩm âm nhạc “Vết thù trên lưng ngựa hoang” (nhạc Phạm Duy, và theo tôi, lấy ý từ Duyên Anh) miêu tả tình trạng bạo lực ấy như sau:

Ngựa phi như điên cuồng

Giữa cánh đồng, dưới cơn giông

Vì trên lưng cong oằn

Những vết roi vẫn in hằn

Trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, ngựa hoang chính là Hùng Bi da, là Lâm, là Phong Bụi, là Bi trong quan hệ với Phong Bụi… Còn bạo lực được miêu tả với hệ quả “… trên lưng cong oằn/Những vết roi vẫn in hằn”.

Với cái nhìn từ đạo Phật, đó là địa ngục. Cuộc đời chính là cuộc tra tấn, với những vết roi. Cây roi bạo lực chỉ là công cụ, là phương tiện. Mọi cái đều bắt nguồn từ tam độc (tham, sân, si).

Lời bài hát trong phim “Xa lộ không đèn” (của nhạc sĩ Y Vân), một phim cũng nói về xã hội đen băng đảng (đạo diễn Hoàng Anh Tuấn), cuộc đời là “xa lộ tối ám không đèn”, “xa lộ giết chết tâm hồn”, “xa lộ sống chết vô tình”, “cuộc đời sao tăm tối như xa lộ không đèn”, “cuộc đời sao tối ám như xa lộ tối đen”… Cũng là một suy nghĩ triết lý về cuộc đời như “Vết thù trên lưng ngựa hoang”, “Bụi đời Chợ Lớn”…

Hầu như, trong tất cả những tác phẩm tiểu thuyết, điện ảnh theo mô típ nói trên, những cuộc chạy trốn, vùng vẫy đào thoát khỏi chảo lửa địa ngục đều là những bi kịch. Kết thúc tác phẩm những nhân vật chính đều chết với đủ kiểu và đều mang tính chất cái chết băng đảng xã hội đen. Bị đâm như trong “Bụi đời Chợ Lớn”, “Xa lộ không đèn”, bị cột trong bao bỏ xuống sông như trong “Luật hè phố”, “Con suối ở miền Đông” (1). Đó là:

Những đời làm ngựa hoang chết gục

Và trên lưng nó Ôi!

Còn nguyên những vết thù”

(Vết thù trên lưng ngựa hoang)

PHẬT TRONG PHIM “BỤI ĐỜI CHỢ LỚN”

Trước phim “Bụi đời Chợ Lớn”, điểm tựa của cuộc chạy trốn khỏi chảo lửa bạo lực đều là tình yêu, chưa có tính chất tôn giáo, mặc dù trong một số tác phẩm, những lời lẽ từ giáo lý nhà Phật đã được thể hiện.

Trong ca khúc “Vết thù trên lưng ngựa hoang”, “nhẫn nhục”, một khái niệm mà nhà Phật coi là Ba la mật, đã được nói đến.

Ngựa hoang muốn về tắm sông nhẫn nhục

Dòng sông mơ màng mát trong thơm ngọt

Tính chất mát, trong của nhẫn nhục là ý trong kinh Phật. Hình tượng so sánh “dòng sông” là sáng tạo của Phạm Duy.

Còn trong lời ca khúc nhạc phim “Xa lộ không đèn” (Y Vân), thì sống chết chỉ là “giọt nắng sớm, cánh sương đêm”, cũng là ý trong kinh Phật.

Vì vậy, triết lý cuộc trốn chạy khỏi cuộc đời đau khổ vì bạo lực, cơ bản là triết lý Phật giáo.

Tuy nhiên, đến phim “Bụi đời Chợ Lớn”, điểm tựa tôn giáo, cụ thể là Phật giáo, mới xuất hiện, với việc nhân vật Hùng Bi Da thắp hương trước bàn thờ Quan Thế Âm Bồ Tát trước giờ quyết đấu với Phong Bụi, để trả món nợ giết Bi, em của Phong Bụi.

Đây là một bước tiến của những tác phẩm thuộc xu hướng mà chúng ta đang bàn luận. Cuộc chạy trốn không chỉ vì tình yêu (2), mà còn là vì yếu tố đạo đức. Đạo diễn, trong trường đoạn này, đã đặt camera từ phía tượng Bồ tát, qua cái nhìn của Bồ tát, từ đó, để cho nhân vật Hùng Bi Da thể hiện tâm trạng.

Có thể thấy rằng, Hùng Bi Da không cầu nguyện Bồ tát phù hộ để anh đánh thắng Phong Bụi, mà chỉ mong tìm ở Bồ tát chiếc phao bình yên cuối cùng cho cuộc đào thoát khỏi cuộc đời bạo lực đã không còn hy vọng. Đây là chi tiết rất có ý nghĩa. Các tác giả bộ phim thể hiện điều này bằng ngôn ngữ điện ảnh, tức là trông cậy vào diễn xuất của diễn viên, không qua lời thoại. Nhân vật im lặng cầu nguyện và chúng ta thấy lời muốn nói qua ánh mắt diễn viên.

Nếu nhân vật Hùng Bi Da cầu nguyện Bồ tát phù hộ đánh thắng Phong Bụi thì bản chất của bộ phim đã hoàn toàn khác. Khi đó, “Bụi đời Chợ Lớn” chỉ còn là một bộ phim bạo lực trả thù, thanh toán, đâm qua chém lại thấp kém. Đàng này, sự im lặng, sự thành kính, tha thiết xen lẫn hối hận, nuối tiếc trong ánh mắt Hùng Bi Da là điều làm nên giá trị của bộ phim tập trung ở trường đoạn Hùng Bi Da cầu nguyện Quan Thế Âm Bồ Tát.

Đó là một trường đoạn không thoại và chỉ có một nhân vật, Hùng Bi Da đối diện tượng Bồ tát Quan Thế Âm. Trường đoạn rất ngắn, chỉ có 2 shot, trước hết là camera từ phía Hùng Bi Da nhìn lên Quan Thế Âm Bồ Tát, và sau đó là từ Bồ Tát Quan Thế Âm nhìn xuống Hùng Bi Da, để nhân vật thể hiện tâm trạng. Ở giữa là không gian mờ mờ hương khói hư ảo…

Kết phim, hầu như tất cả các bên đều chết trong vòng xoáy ác nghiệt của bạo lực kể cả Tài Nhớt, dù là đâu đó vẫn hy vọng ở cuộc chạy trốn đến một nơi nào đó. Nhìn kỹ, chúng ta sẽ thấy đó đều từ tham sân si. Tài Nhớt tham, Hùng Bi Da sân (vì giết Bi em Phong Bụi), Phong Bụi và Bi si (bị Tài Nhớt gài bẫy). Và ở mỗi người cùng đều có đủ tham sân si cao độ (nhất là nhân vật Lâm), động lực của bạo lực.

Xem phim “Bụi đời Chợ Lớn” với con mắt đạo Phật, chúng ta còn nhìn thấy sự vận động của trục ái dục song song với trục bạo lực. Bên cạnh mỗi nhân vật chính đều có một người đàn bà. Riêng Phong Bụi, người đàn bà đó là ẩn hình, chỉ được Tài Nhớt nhắc đến như một miếng mồi, ở một nơi xa xăm vô định, chỉ với lời hứa hão huyền được gặp, mà Phong Bụi lao vào cuộc đâm chém đến mức điên cuồng. Vì ái dục, người ta chạy trốn khỏi bạo lực, và cũng vì ái dục, người ta mắc lại trong vòng bạo lực. Cũng có một thông điệp mang tính triết lý ở đây. Khi người ta tìm đến Bồ Tát Quan Thế Âm thì đã quá muộn màng…

Có lẽ hàng triệu người đã xem bộ phim “Bụi đời Chợ Lớn”, mong rằng bài phê bình này đến được với khán giả của phim, để người đọc người xem, người nghe “Bụi đời Chợ Lớn”, cũng như “Xa lạ không đèn”, “Vết thù trên lưng ngựa hoang”, “Điệu ru trước mắt”, “Luật hè phố”, “Con suối ở miền Đông”… không xem đó chỉ là những tác phẩm kích thích bạo lực, mà thấy ở đó triết lý nhân văn của tác phẩm, một thứ triết lý bắt nguồn từ tư tưởng Phật giáo “Đời là bể khổ

MT

(1) Riêng trong phim “Bụi đời Chợ Lớn”, cuộc chạy trốn của nhân vật Lâm thành công, nhân vật thoát khỏi cuộc sống băng đảng hoàn lương sau khi thi hành án. Theo tôi, chi tiết này rất tích cực, thể hiện yếu tố phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa của bộ phim. Rất tiếc là dấu ấn phương pháp sáng tác xã hội chủ nghĩa có tính lạc quan này không được ghi nhận khi duyệt phim.

(2) Đúng ra mô típ tình yêu là điểm tựa của cuộc chạy trốn khỏi cuộc đời bạo lực có từ Nam Cao với tác phẩm “Chí Phèo”, Duyên Anh chỉ là tác giả đi sau. Có điều, “Chí Phèo” chỉ du đãng bạo lực ở mức cá nhân. Từ Duyên Anh đến Charlie Nguyễn, bạo lực mới phát triển đến mức băng đảng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/12/2015(Xem: 5555)
Phiên xử vụ thảm sát ở Bình Phước, như mọi phiên tòa lưu động khác, lại thu hút rất đông đảo người dân. Hàng nghìn người đã bỏ việc, đội nắng đến tận nơi để tận mắt nhìn thấy những kẻ thủ ác.
23/12/2015(Xem: 6158)
Những ngày qua, bên cạnh việc quảng bá và cổ vũ rầm rộ cho ngày lễ Giáng sinh Gia tô giáo trên các phương tiện truyền thông ở Việt nam, thì cũng đồng thời xuất hiện thông tin được trích từ Telegraph với dòng tít: “Brunei: Chúc mừng Giáng sinh bị án tù 5 năm và nộp phạt tương đương 400 triệu VNĐ”.
11/12/2015(Xem: 9268)
Những ngày vừa qua với loạt bài phóng sự điều tra của báo Lao Động về cách tu hành, ăn tiết canh, uống rượu Tây, phát ngôn “bá đạo” của ông Sư Minh Thịnh chùa Phú Thị, chưa dứt, tạo nên sự bức bối trong dư luận và đương nhiên nhiều nhóm ngoại giáo không từ khước miếng mồi béo bở này để lên giọng thuyết giáo xúc xiểm Phật giáo…; thì báo Thanh Niên lại tung ra một bài báo khác, như để nối tiếp sự kiện không giống ai của mấy ông Sư tự cho mình là “những công dân đặc biệt áo nâu” sống ở chùa! Đó là bài “Dân Chàng Sơn “trả” Sư trụ trì chùa làng” của tác giả T.N.
10/12/2015(Xem: 5806)
Tự lực và tha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm mọi tiến trình tu tập của một cá nhân và cũng quyết định pháp môn tu tập mà người ấy chọn. Bài viết này sẽ cố gắng không đề cập đến quá nhiều những khái niệm phức tạp có thể khó hiểu đối với đa số độc giả, nhưng tất yếu phải đủ bao quát để nêu rõ ý nghĩa của tự lực và tha lực, cũng như chỉ ra các mối tương quan được nhận hiểu như thế nào trong đạo Phật. Do tính chất phức tạp và bao quát đó, ở một số nơi cần thiết chúng tôi sẽ đặt những liên kết để người đọc có thể tùy ý tham khảo thêm nếu thấy một khái niệm nào đó là khó hiểu. Ngoài ra, những thuật ngữ Phật học thông thường đều có thể tra cứu dễ dàng ở đây. Tất cả kinh điển được trích dẫn trong bài viết này đều là trích dẫn trực tiếp từ kinh văn, không trích lại từ nguồn khác, và nếu các đoạn kinh văn nào không ghi người Việt dịch thì xin quý độc giả ngầm hiểu đó là bản Việt dịch của người viết bài này.
07/12/2015(Xem: 6884)
Trong những tháng vừa qua, người viết được mời tham dự nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm về công tác văn hóa, thông tin và báo chí, (phần lớn đều nằm phía ngoại biên Phật giáo). Với người ta, mình đã nhiệt tình đóng góp rất nhiều ý kiến cũng như học hỏi được không ít điều hay, khả dĩ có thể bổ sung kinh nghiệm viết lách cho bản thân; nhưng khi nhìn về mình, một khoảng trời lý tưởng đang dốc lòng phụng sự, thấy vẫn còn rất nhiều những nhấp nhô, gồ ghề, thậm chí xấu xí trên mặt bằng thông tin truyền thông Phật giáo (TTTT PG).
12/11/2015(Xem: 11282)
Đây là bài Pháp luận có Chủ đề: Tại Sao Giới Trẻ Ít Đến Với Đạo Phật? do Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ và Canada tổ chức trong KHÓA TU HỌC PHẬT PHÁP BẮC MỸ LẦN V tại San Diego, CA từ ngày 6 đến ngày 10, tháng 8 năm 2015. Thuyết trình đoàn gồm có Thượng Tọa Thích Hạnh Bình, Thượng Tọa Thích Nhật Trí, Ni Sư Thích Thiền Tuệ, Cư Sĩ Quảng Thành Bùi Ngọc Đường, và cá nhân tác giả. Đây là phần thuyết trình của chúng con / chúng tôi. Nếu có chút vụng về gì trong khi truyết trình hay viết thành văn, kính mong quý Ngài và quý vị niệm tình mà tha thứ cho.
08/10/2015(Xem: 5468)
Ai giết chùa? Sau khi bài viết “Chùa chết” của tôi được nhiều bạn đọc được, tôi đã nhận được rất nhiều phản hồi. Thành tâm biết ơn sư quan tâm của các bạn. Nay tôi quyết định đi sâu thêm 1 chút nữa, chỉ 1 chút và động đến 1 góc nhỏ thôi ạ. Chuyện chùa chết thì đã rõ. Nhưng ai là người giết chùa.
03/10/2015(Xem: 9485)
Tôi nhận được email, nhắn tin, điện thoại mỗi ngày. Nhiều lắm. Trong số đó có những thắc mắc, những trăn trở và đây là một trong rất nhiều số đó. “Con xin phép hỏi thầy 1 câu ạ: các nhà sư khi xuất gia (đã thành đại đức và là trụ trì 1 ngôi chùa) thì có được phép ăn mặn và uống rượu bia không ạ. Vì con có tìm hiểu và biết rằng Phập Pháp rất tốt cho bản thân con và những người xung quanh nên con có tham gia 1 câu lạc bộ phật tử ở tỉnh Nam Định (quê con ạ) và có theo 1 thầy đại đức. Nhưng hóa ra con mới biết là thầy không ăn chay mà cũng thi thoảng uống rượu, bia. Theo thầy Hùng thì con có nên theo thầy đại đức này không ạ?”
24/09/2015(Xem: 5707)
Trong những ngày mưa ngập lụt lội nhiều nơi tại Việt Nam, có một người đàn ông đi xe hơi hạng đắt tiền đã giận dữ bỏ đi giữa làn nước, vốn đã lên đến thắt lưng, để lại chiếc xe của mình một cách đau đớn bất lực. Như hàng vạn người nghèo khó khác đã ngụp lặn, lội qua giòng nước ô nhiễm đó, chèo kéo từng chiếc xe honda, xe đạp của mình để về nhà, người đàn ông đó chắc cũng có chung một câu hỏi không lời đáp về tương lai mà tiền của là vô nghĩa trước những biến động đang ập đến ngay cửa nhà mình. Qua những biểu đạt than phiền về ngập lụt khắp nơi, qua các trang mạng hay báo chí, có thể thấy rằng không phải con người Việt Nam đã quá sức chịu đựng, mà họ như sực tỉnh trước một giấc mộng dài được vỗ về bởi những người lãnh đạo về sự hoa lệ của đô thị, về những chỉ số phát triển… nhưng chỉ trong tíc tắc đã lộ ra rằng mọi thứ chỉ là sân khấu tạm thời rực rỡ. Khi cánh màn nhung và những lời tuyên bố vừa dứt, hiện thực đã hiện ra tàn nhẫn với tương lai về nhà đen ngòm.
24/09/2015(Xem: 9182)
Phải nói thật rằng câu hỏi này lởn vởn trong đầu tôi nhiều lần, trong nhiều năm nay. Nghe có vẻ ngớ ngẩn. Mà cũng có thể tôi là người ngớ ngẩn. Ai đời lại đi đặt câu hỏi mà đứa trẻ học tiểu học cũng có câu trả lời thế này. Ấy thế mà khi ngồi tĩnh tâm tại ngôi chùa lớn nhất thế giới Borobudur, Indonesia câu hỏi này lại hiện về. Hiện về 1 cách rất rõ nét. Đây là lần thứ 3 câu hỏi này làm tôi trăn trở nhiều nhất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]