Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng Nói của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo

24/09/201204:42(Xem: 6143)
Tiếng Nói của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo
buddha
TIẾNG NÓI CỦA PHẬT PHÁP
& TƯƠNG LAI PHẬT GIÁO


Nguyên Hiệp dịch


Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu.
Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ.

Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những kháiniệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tâythích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn nó bằng con mắt hiện đại, kết quả có thể làm tổn hại Phật giáo. Phật giáo có thể bị sáp hợp hay bị loại bỏ: không phải một cách cố ý, mà chỉ vì thế giới hiện đại thiếu khả năng hiểu và thực hành Phật pháp ở một tầm mức sâu.

Nhưng nguy cơ thậm chí còn lớn hơn điều này. Cách hiểu hiện đại về thực tại đang trở thành cái hiểu toàn cầu về thực tại. Nó đang biến đổi những nền văn hóa truyền thống, bao gồm những nền văn hóa mà ở đó giáo pháp Đức Phật đã đặt nền tảng cho việc tìm kiếm ý nghĩa trong đời sống. Nếu việc hiểu của chúng ta về Phật pháp phản ảnh những sự phát triển hiện đại này, thì một sự giảithích méo mó và hạn chế về giáo pháp có thể gây hiểu nhầm về những lời dạy chân thật của Đấng Giác ngộ. Nếu điều này xảy ra, Phật giáo có thể không còn nữa đối với loài người.

Văn hóa hiện đại là nguồn của công nghệ đáng kinh ngạc và của tri thức khoa học sâu sắc. Những thành tựu của nó, mà chúng ta thường chấp nhận không chút phân vân, đã giúp chúng ta từ khắp mọi nơi trên thế giới đến đây; chúng khiến cho hội nghị lớn này nghe được lời nói của tôi. Tuy nhiên nền văn hóa giống nhau này vô cùng hỗn loạn. Khắp mọi nơi, người ta đang trôi dạt không phương hướng giữa một đại dương mênh mông không đảm bảo và hỗn độn. Xung đột và đối kháng sâu sắc đe dọa nhấn chìm thế giới này trong tranh chấp. Những thế lực quyền lực tiêu cực tạo nên hiểm nguy cho tất cả loài người. Họ thậm chí đe dọa trái đất, nơi chúng ta nương náu, nơi chúng ta tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa đời sống.

Chính ở bên trong nền văn hóa này, với tất cả sự yếu kém, mâu thuẫn và gãy vỡ của nó, Phật giáo sẽ phải định hướng đi của mình. Hơn 2.500 năm qua, Phật pháp đã hướng dẫn nhiều người. Tuy nhiên bây giờ, Phật pháp đang sống ở một thế giới mới xa lạ, một thế giới mà nó nói một ngôn ngữ khác và nhìn thực tại bằng một cách thức khác. Trong bối cảnh mới này, Phật pháp sẽ phải học cách nói bằng một tiếng nói mới. Bằng cách nào đó, Phật pháp và xã hội hiện đại phải đi vào đối thoại.

Là những Phật tử thuần thành, tin chắc vào giá trị của Phật pháp ở nơi chính xã hội của chúng ta và đối với thế giới nói chung, chúng ta phải giúp Phật pháp tìm được tiếng nói mới này, để Phật pháp có thể tiếp xúc với thế giới hiện đại, làm cho thế giới lắng nghe theo những phương cách không làm méo mó giáo pháp. Nếu chúng ta quay lưng lại với những khuynh hướng đang định hình nên thế giới ngày nay, nếu chúng ta nói chuyện với những người thực hành Phật pháp khác bằng những phương thức cũ và bằng những ngôn ngữ cũ, chúng ta sẽ hoàn toàn không nói được với ai cả. Thế giới sẽ quay mặt với Phật pháp. Nếu chúng ta không thể tìm ra được một tiếng nói cho Phật pháp nghe lớn và rõ hơn, vượt lên trên sự ồn ào huyên náo của thế giới khích động này, khả năng để Phật pháp làm lợi ích tất cả loài người ở thời điểm này sẽ không bao giờ được thực hiện.

Thế giới hiện đại thưởng công những người nói lớn. Ngày nay cả ngàn tiếng nói hét vang lên từ mỗi góc phố, từ mỗi màn hình máy tính. Chúng luôn đưa ra điều mới tiếp theo. Sẽ là một nhầm lẫn khi cố hét át chúng, cạnh tranh sự chú ý nơi một đấu trường của giải trí và những quan tâm luôn thay đổi. Đức Phật khiển trách những lời nói vô bổ, khiển trách những lời nói đưa tinh thần con người rời xa những giá trị sâu sắc hơn. Sự cảnh báo này quan trọng hơn ngày hôm nay, khi mà thị trường đi theo chúng ta vào tận nhà và vào trong đầu của chúng ta, tràn lan và thâm nhập khắp mười phương. Nếu người thực hành Phật pháp bằng lòng sử dụng ngôn ngữ của thị trường, họ sẽ đưa ra một con đường tâm linh quá ư đơn giản được thiết định để làm cho người ta cảm thấy tốt cho họ, hơn là để chỉ một con đường giải thoát. Tất cả chúng ta biết những điều đó có thể kết thúc như thế nào, và những kết quả sẽ hết sức buồn chán như thế nào. Không… tiếng nói của Phật pháp cho thời hiện đại phải nói bằng một nhịp điệu và âm giọng khác. Nó phải thể hiện độ sâu và tầm nhìn rộng của lời dạy Đức Phật. Điều đó không bao giờ là một nhiệm vụ dễ dàng. Bây giờ nó càng khó khăn hơn bao giờ hết.

Tất nhiên, chúng ta không thể từ bỏ. Chúng ta phải nỗ lực hết mình. Ở đây tôi muốn tập trung vào một khía cạnh cụ thể của trách nhiệm này. Tại thời điểm quan trọng nơi lịch sử Phật pháp và lịch sử thế giới này, chúng ta phải nhằm đến việc trao tiếng nói cho Phật pháp bằng những ngôn ngữ của phương Tây, mà không đánh mất tinh thần và ý nghĩa của Phật pháp khi chúng ta làm như vậy.

Cho phép tôi nói điều này rõ hơn. Bây giờ và những năm đến, Phật giáo phải học nói tiếng Anh. Tại sao? Bởi vì tiếng Anh đang nhanh chóng trở thành ngôn ngữ chung của thế giới. Nhưng tiếng Anh chúng ta sử dụng bây giờ là ngôn ngữ của kinh doanh và thương mại, ngôn ngữ của giải trí và công nghệ, ngôn ngữ được thiết định để nói với chúng ta những cái mới của “cái mới tiếp theo”. Dạng tiếng Anh đó hoàn toàn không giúp hiểu được ý nghĩa đầy đủ giáo pháp thâm sâu của Đức Phật. Do vậy công việc sắp đến là lớn hơn trước đây chúng ta có thể tưởng tượng. Công việc chuyển dịch kinh Phật sang tiếng Anh đã được thực hiện hơn một thế kỷ, và nhiều việc đã được thực hiện. Nhưng bây giờ không chỉ cần có thêm những bản kinh được chuyển dịch, mà còn cần một giải pháp hoàn toàn mới. Nếu các bản dịch không chứa đựng được ý nghĩa đầy đủ của Phật pháp, có nghĩa chúng chưa được chuẩn bị đủ. Chúng ta phải mạnh dạn hơn. Chúng ta phải thực hiện mục đích là biến tiếng Anh thành một ngôn ngữ của Phật pháp.

Tại sao thực hiện công việc này là thực sự quan trọng? Tại sao tiếng Anh phải trở thành một ngôn ngữ của Phật pháp? Bởi vì những ngôn ngữ Phật pháp mà chúng phục vụ chúng ta qua hàng thế kỷ đang có nguy cơ biến mất. Có bao nhiêu người ngày hôm nay có thể đọc được tiếng Pāli? Có bao nhiêu người ngày hôm nay biết tiếng Sanskrit hay những ngôn ngữ khác của Phật giáo Đại thừa? Nếu chúng ta nhìn về trước thêm 20 hay 50 năm nữa, có bao nhiêu người còn biết đến những ngôn ngữ này? Sự hợp lý nội tại của một xã hội đang gia tăng tính toàn cầu đòi hỏi rằng dân chúng của thế giới phải nói cùng một ngôn ngữ. Nếu Phật pháp không thể tìm thấy tiếng nói của mình ở nơi ngôn ngữ đó, nếu nó không thể nói ngôn ngữ đó với đầy đủ thẩm quyền, tính chính xác và chiều sâu của nó, nó sẽ không có vị trí nơi nền văn hóa toàn cầu mới mẻ.

Một vài người có thể đáp lại rằng Phật pháp đã nói tiếng Anh rồi. Xét cho cùng, chúng ta ở đây, tập trung lại với nhau từ tất cả mọi nơi trên thế giới, chia sẻ quan điểm của chúng ta bằng tiếng Anh. Vậy không phải chúng ta có một ngữ vựng Phật pháp chung rồi sao? Chúng ta không phải đã có thể trình bày giáo pháp đến thế giới hiện đại rồi sao?

Có sự thật nơi lời khẳng định này. Những vị thầy lớn đang dần học cách trình bày giáo pháp bằng tiếng Anh, hay nói thông qua những người phiên dịch đã học sâu giáo pháp. Những người Tây phương cũng đang học và thực hành theo những con đường xưa, để họ có thể chia sẻ với người khác lợi ích của việc thực hành của họ. Và nếu những nỗ lực để tái thiết lại Phật pháp ở Ấn Độ được tiếp tục, những nỗ lực mà ở đó tôi tự hào đóng một vai trò nhỏ, thì triển vọng sẽ sáng sủa hơn, vì Ấn Độ là duy nhất trong việc kết hợp những truyền thống tâm linh vững mạnh với một sự am hiểu sâu về tiếng Anh.

Lại nữa, để ỷ lại vào những sự phát triển này, để nghĩ rằng những vấn đề sắp được giải quyết rồi, là bỏ qua một điểm cơ bản. Đây là một câu hỏi cần xem xét: Điều gì khiến chúng ta nghĩ rằng ngữ vựng tiếng Anh chúng ta sử dụng ngày nay trong những bài pháp thoại và những bản dịch của chúng ta là chuyển tải được sức mạnh và chân lý của lời dạy Đức Phật? Ngay đối với những thuật ngữ căn bản nhất điều này có thể là một giả định sai lầm.

Một nhà thơ vĩ đại người Anh thế kỷ XIX, Percy Bysshe Shelly, từng viết rằng “những nhà thơ là những nhà lập pháp không được thừa nhận của cuộc đời”. Điều ông muốn nói là rằng những người trao cho chúng ta ngôn từ của chúng ta, những người tạo ra ngôn ngữ luôn thay đổi của chúng ta, sẽ định hướng cách chúng ta hiểu thực tại. Vì vậy chúng ta phải hỏi: những gì là thực tại mà những bản dịch và thuật ngữ tiếng Anh của ngày hôm nay xây dựng nên? Từ ngữ gì họ sử dụng để chuyển tải đến thính giả chân lý giáo pháp Đức Phật? Nếu những dịch giả chỉ nắm được nghĩa tương đương gần nhất của Tây phương về những thuật ngữ Phật học vốn có nghĩa uyên áo, thì thực sự có thể chuyển tải được bao nhiêu?

Điều này không phải là một quan tâm học thuyết hay học thuật. Xung quanh chúng ta, chúng ta có thể nhìn thấy những người Tây phương diễn đạt những quan điểm giới hạn của họ về chân lý huyền nhiệm mà Đức Phật đã thiết định. Ví dụ, có một xu hướng mạnh mẽ biến Phật giáo thành một giáo lý tự lực hơn, mà thật sự là phương cách khác dành cho những người bị vướng vào trong những chiếc bẫy của văn hóa hiện đại nhằm tìm kiếm sự khuây khỏa, thoát khỏi stress, lo lắng và rối trí. Nếu ngôn từ chúng ta sử dụng cho việc truyền bá Phật pháp có gốc rễ của chúng ở nơi nhưng quan tâm và mục đích như vậy, làm cách nào ta có thể đưa con tim và tâm trí của những người lắng nghe ta đến việc giải thoát ra khỏi luân hồi? Ngay cả những vị thầy vĩ đại nhất cũng không thể truyền tải những gì ngôn ngữ sẽ không để cho họ nói.

Bị giáng xuống đến tầm mức này, giáo lý chân thực của Đức Phật sẽ bị đánh mất. Điều tệ hại là, những thế hệ tương lai sẽ không thể nhận biết những gì đã xảy ra. Họ sẽ không bao giờ biết rằng ý nghĩa nội tại của giáo pháp đã bị làm cho tan chảy.

Cho phép tôi đưa ra một vài ví dụ. Tất cả chúng ta nói về sự giác ngộ (enlightenment) của Đức Phật, lễ kỷniệm lần thứ 2.600 mà chúng ta cử hành tại cuộc họp này. Nhưng từ “enlightenment” có đúng với sự giác ngộ của Đức Phật không? Thuật ngữ tiếng Anh “enlightenment” có phụ nghĩa lịch sử mà nó không phù hợp với Phật pháp. Nó được liên kết với khoa học và thế giới vật chất, liên kết với sự khẳng định rằng tính hợp lý quy ước và năm giác quan có thể truyền đạt phạm vi tổng thể của những gì là đúng, và liên kết với thẩm quyền của mỗi cá nhân để tuyên bố chân lý của riêng mình. Không có phụ nghĩa nào trong các nghĩa này phù hợp với Phật pháp. Chúng ta có thể làm cho tốt hơn không?

Lại nữa, từ sati (S. smṛti, niệm) thì hầu như được dịch là “mindfulness”. Ngày nay kháiniệm “mindfulness” này thì rất phổ biến. Việc tu tập được gọi là mindfulness - được đặt cơ sở nơi việc làm giảm bớt căng thẳng đã mang lợi ích cho hàng chục ngàn người qua việc giảng dạy một sự thực hành được gọi là “sự chú ý đơn thuần” (bare attention). Đây rõ ràng là một sự phát triển tích cực. Tuy nhiên có phải “mindfulness” được hiểu như “bare attention” đưa đến trí tuệ (paññā/ prajñā) không, sự hiểu biết khai mở bản chất thật sự của các pháp? Khi chúng ta giải quyết quan điểm này, có phải chúng ta đang để Phật pháp nói bằng tiếng nói của chính nó không? Hay là chúng ta chỉ giữ chặt những chọn lựa được thực hiện mà không có sự hiểu biết chân thật và nghiên cứu cẩn thận.

Tôi đã chọn hai trường hợp này bởi vì chúng là căn bản, và bởi vì từ ngữ tiếng Anh tương đương với thuật ngữ Phật pháp trong mỗi trường hợp được thiết lập quá vững chắc. Đó là tôi không chạm đến ngữ vựng triết học phức tạp của Abhidharma và những truyền thống luận tạng, nơi sự hiểu biết chính xác và chuyển dịch đúng dựa vào những suy xét tinh tế và phức tạp. Hãy xem từ “vedanā” (thọ), hầu như luôn được dịch là “feeling”. Những sinh viên mà tôi dạy từng gặp khó khăn với thuật ngữ này, bởi vì từ tiếng Anh “feeling” có một phạm vi nghĩa rộng hơn vedanā. Để cứu họ ra khỏi sự bối rối này, chúng ta phải nên nhìn bằng những đôi mắt sáng rõ vào cách thuật ngữ này đã được sử dụng khắp các kinh luận như thế nào. Chúng ta phải nhìn rõ vào cách nó được dịch sang những ngôn ngữ Phật pháp khác như Hán ngữ, Tạng ngữ, v.v… Sau đó, chúng ta phải tìm hiểu từ tiếng Anh “feeling” và phạm vi ý nghĩa của nó, cố gắng làm rõ và nói những giới hạn mà việc hiểu phương Tây về cách tâm thực sự đóng chức năng. Kết luận, tôi sẽ hỏi có một sự thay thế nào tốt hơn không, điều đáp ứng mục đích đầy đủ hơn.

Lại thêm một vấn đề cũng trong chiều hướng đối nghịch. Mới đây tôi có tham dự một hội nghị, ở đó nhiều học giả Tây phương giỏi nhất về Phật giáo đã thảo luận về vấn đề đạo đức học Phật giáo. Trong hầu hết mọi cuộc thảo luận, những câu hỏi căn bản đã được nêu ra. Có phải những thuật ngữ đạo đức (ethics)và “luân lý” (morality)thực sự chuyên chở được ý nghĩa của thuật ngữ “sīla/ śīla” (giới) không? Những thuật ngữ phương Tây như “tự do” (freedom)và “tự do ý chí” (free will)có giúp cho những sinh viên hiện đại học Phật pháp hiểu những gì muốn nói là giải thoát khỏi luân hồi (saṃsāra)và ý muốn đạt đến giác ngộ? Không có ai có câu trả lời cho những câu hỏi này. Thậm chí không mấy người hỏi về chúng. Nó là một sự nối kết đang thiếu trong việc truyền bá Phật pháp vào thế giới hiện đại.

Trong nhiều năm qua, tôi là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ Phật giáo Mangalam(Mangalam Research Center for Buddhist Languages). Ở đấy, làm việc với những học giả hàng đầu, chúng tôi đang cố gắng làm một vài điều về sự nối kết đang thiếu này. Chúng tôi hy vọng tham gia với các vị thầy của tất cả các truyền thống trong công việc này, và khuyến khích sự cộng tác, sử dụng công nghệ số của phương Tây để tạo nên tri thức cần đến. Chúng tôi tận tâm tạo nên một nguồn tài liệu trực tuyến có tên gọi là Buddhist Translators Workbench, và qua đây chúng tôi hy vọng thực hiện một sự đóng góp khiêm tốn đối với những nhu cầu cấp bách mà tôi đã trình bày.

Càng làm tôi càng nhận thấy đề án này là rộng lớn và thật sự cấp bách. Nghiên cứu ngôn ngữ và lịch sử tưtưởng để làm rõ ý nghĩa của giáo pháp không phải là một quan tâm học thuật. Những gì chúng tôi làm sẽ giúp định hướng tương lai Phật pháp. Nó sẽ giúp quyết định Phật pháp có một tương lai hay không.

Tất cả mọi truyền thống Phật pháp đồng ý rằng ngôn ngữ không bao giờ có thể khai mở chân lý cao nhất. Nếu điều đó là như vậy thì vấn đề ngôn ngữ chúng ta sử dụng có thật sự quan trọng không? Vâng… nó là quan trọng. Nó hết sức quan trọng. Chân lý của Phật pháp vượt qua ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ chỉ ra chân lý, giống như một tấm bản đồ chỉ hướng đúng để đi. Ngôn ngữ là tiếng nói mà thông qua đó chân lý mở ra, mời gọi chúng ta thực hiện một cuộc hành trình vào những lĩnh vực không được biết. Nếu ngôn ngữ của chúng ta dẫn chúng ta đi lạc đường, nếu chúng chỉ hướng sai hay đánh lừa chúng ta về mục đích, cuộc hành trình sẽ kết thúc ở nơi sự thất vọng hay sự lừa gạt.

Để tìm một tiếng Anh có thể chuyển tải được Phật pháp, chúng ta cần những học giả giỏi nhất từ phương Tây, những học giả được đào tạo về ngôn ngữ đúng cách mà họ đang trở nên quý hiếm ngay cả ở nơi những trường đại học Tây phương có uy tín nhất. Chúng ta cũng sẽ cần sự giúp đỡ của những vị thầy giỏi Phật pháp từ tất cả mọi truyền thống, những vị đạo sư có thể rót trí tuệ và hiểu biết của họ vào trong những chiếc bình ngôn ngữ nói và viết.

Đây là nơi sự đối thoại phải bắt đầu. Đây là cách Phật pháp sẽ tìm lấy tiếng nói của nó: với sự quan tâm, nhiệm vụ và tính chính xác. Nếu tiến trình này thành công thực sự, tiếng Anh sẽ trở thành một ngôn ngữ Phật pháp, và Phật pháp, được tái tạo để nói với thế giới hiện đại, sẽ ảnh hưởng ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày, định hướng sự nhận thức. Phật pháp sẽ thêm một lần nữa làm công việc chuyển đổi kỳ diệu của mình. Như ở trong những thế kỷ qua, người ta sẽ hiểu bằng tất cả con tim rằng giải thoát khổ đau là có thể. Họ sẽ biết điều này bởi ngôn ngữ mà họ sử dụng, kháiniệm mà họ học để suy nghĩ, thực tại mà từ ngữ lập nên. Nếu điều này xảy ra, giáo pháp của Đức Phật sẽ thật sự tìm ra tiếng nói của nó cho thế giới hiện đại, và chúng ta có thể hy vọng rằng Phật pháp sẽ trường tồn.

Nguồn: www.mangalamresearch.org.

Jack Petranker(*)- Nguyên Hiệp dịch

(*)Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ngôn ngữ Phật giáo Mangalam

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2011(Xem: 3066)
Phật Giáo Hoà Hảo được khai sáng từ năm 1939 trong dòng lịch sử cận đại của dân tộc - một nền đạo quy nguyên Phật pháp, với phương thức hành đạo đơn giản, không chuộng hình tướng lễ mễ, rườm rà mà cốt yếu hướng về tâm, chủ trương nhập thế tích cực vào mọi phương diện của xã hội, đã nhanh chóng phù hợp với phong hoá nhân sinh vốn mộc mạc, thuần phác ở vùng châu thổ sông Cửu Long.
23/02/2011(Xem: 3410)
Chính thức ra đời từ tháng 11-1926 với một lễ rất long trọng (gọi là Khai minh Đại đạo) tại chùa Gò Kén, làng Long Thành,[1] đạo Cao Đài dần dần hình thành những cộng đồng Cao Đài khác nhau trong lịch sử phát triển của nền tôn giáo bản địa mới mẻ. Mỗi cộng đồng bao gồm nhiều tín đồ với những sinh hoạt tu hành lâu đời kết tập. Sự thấm nhuần giáo lý và hàm dưỡng trong việc thực hành pháp môn trải qua thời gian mấy mươi năm đã hình thành những sắc thái riêng trong nếp nghĩ, trong hành vi, trong tình cảm của các tín đồ Cao Đài. Như vậy là có tâm lý của người tín đồ Cao Đài, nếu hiểu thật đơn giản rằng: Tâm lý là những đặc điểm về tình cảm và hành vi của một cá nhân, một nhóm người, hay một hoạt động.[2]
19/02/2011(Xem: 3031)
(VOV) - Hình ảnh những tảng thịt xâu, móc trên giá, máu còn nhỏ đỏ tươi, có miếng trơ xương, có miếng còn nguyên da lủng liếng ở một góc “chợ” trên đường vào Chùa Hương thật gây phản cảm cho người hành hương. Mới đây Đài Truyền hình Trung ương đã chiếu một phóng sự ngắn, lên tiếng về việc thịt thú rừng được treo, bày bán vô tội vạ gần thắng cảnh Hương Sơn. Hãy khoan nói về việc đó có thể là thịt thú rừng thuộc danh mục cấm săn bắn, việc có thể thú nhà giả thú rừng.v.v… Ở đây tôi chỉ muốn nói đến những hình ảnh gây phản cảm đối với khách hành hương.
19/02/2011(Xem: 3916)
Tôi chỉ là một Tu Sĩ tầm thường nhất, cho nên khi đọc những bài viết mang tính công kích, bài trừ mê tín về Hoa Trời. Tôi không chắc là Hoa Mạn đà la hay Mạn thù sa, cho nên tôi tạm gọi là Hoa Trời. Khi tôi nhận được các E-mail của Quý Ngài, cũng như vào các Websites thấy hình ảnh Hoa Trời, và nhất là lúc hành lễ Phật Ngọc có vòng hào quang xuất hiện trên trời. Lúc đó tôi rất mừng và vô cùng hoan hỷ để được chút Công Đức Tùy Hỷ. Vì mình không có góp công, góp của trong việc thỉnh Phật Ngọc Hòa Bình, nhưng có tâm tuỳ hỷ cũng được Tùy Hỷ Công Đức. Do đó, tôi thấy niềm tin của tôi phát khởi mạnh thêm, làm cho tôi tinh tấn thêm. Những Phật tử cũng điện thoại và E-mail cho tôi, thấy những hiện tượng này, làm cho gia đình họ vô cùng hoan hỷ và phát lòng tin mạnh mẽ để tinh tấn hơn. Những hình ảnh đó, đã có tác dụng làm cho bao nhiêu triệu người Phật tử trên thế giới vui tươi. Giúp họ rơi rụng đi biết bao nhiêu nhiệt não, bao nhiêu đau khổ bởi cuộc đời. Những hình ảnh ấy, đã làm cho tâm hồn h
19/02/2011(Xem: 3323)
Trong Ca Khúc Đông và Tây (The Ballad of East and West), văn hào người Anh Rudyard Kipling (1865–1936) đã viết “Ôi, Đông là Đông và Tây là Tây, cả hai chẳng nên hề gặp gở” (Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet) đã trở nên câu nói thời thượng diễn tã sự dị biệt khó hòa giải giữa hai nền văn hóa.
19/02/2011(Xem: 3677)
Ai đó dựng ra câu chuyện “sư cô trụ trì” cải đạo theo Chúa là người có tâm lý cạnh tranh tôn giáo kém lành mạnh, nếu không muốn nói là hành vi thiếu lương thiện, và những người lợi dụng tình cảnh đau đớn, lúc mê lúc tỉnh của bệnh nhân để đạt mục đích cưỡng đoạt niềm tin tôn giáo là phi đạo đức.
12/02/2011(Xem: 6682)
Có rất nhiều hình tượng để chúng ta hư cấu, mà thông qua đó gởi gấm tâm sự của mình, hay phê phán hoặc giáo dục thói hư tật xấu của xã hội. Phật, Bồ-tát và thánh tăng là những mẫu người toàn thiện của xã hội, những bậc vĩ nhân của nhân loại (chứ không phải của chủ nghĩa lý tưởng hóa).
23/01/2011(Xem: 3690)
Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác chính là tôn trọng mình. Ai đem sự tôn trọng đi thì nhận lại sự tôn trọng. Đó là định luật nhân quả. Người viết xin được mở đầu câu chuyện trong tuần kỳ này bằng câu thành ngữ “Cáo mượn oai hùm” thường ngụ ý để chỉ cho những người ưa lòe bịp, hù dọa mọi người bằng quyền uy của người khác để tự tung tự tác. Chuyện kể, có một con hùm đói bụng đang tìm cách săn mồi thì gặp ngay một con cáo. Cáo thấy nguy bèn nói: “Này anh hùm, anh đừng có ý định ăn thịt tôi. Trời đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Anh mà ăn tôi là làm trái ý của trời! Không tin, tôi đi đằng trước, anh đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Quả nhiên, khi cả hai cùng bước đi, mọi vật nhìn thấy đều chạy tán loạn. Con cáo lấy uy của trời để lừa hùm, rồi lại mượn hình ảnh của hùm để dương dương tự đắc với những loài vật khác.
08/01/2011(Xem: 4046)
Chẳng bao lâu nữa, đám lửa bùng lên từ Mỹ Đình kia, hay từ bất cứ tư gia nào, sẽ lan hết khắp mọi miền đất nước, và lan cả đến xung quanh chùa Quán Sứ, hay mỗi ngôi chùa khác. Mùa Noel năm nay, bên cạnh các hoạt động tưng bừng không khí ăn chơi, hội hè, mua bán thường thấy ngoài xã hội, chúng ta còn chứng kiến sự trỗi dậy của Tin lành, qua một loạt các sự kiện lễ hội mừng giáng sinh được tổ chức vào giờ chót khắp nơi trên đất nước, đặc biệt tại TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội.
06/01/2011(Xem: 4289)
Những người mưu toan cải đạo tín đồ Phật giáo sang các tôn giáo phương Tây luôn săn tìm những không gian thuận lợi để tổ chức thực hiện việc cải đạo. Tất cả mọi địa điểm đều được chú ý đến, đặc biệt là những địa điểm công cộng như trường học, bệnh viện, kể cả những không gian di động, nhưng có nhiều thời gian để hành sự, như xe đò đường dài, xe lửa…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567