Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo Muốn Gì?

06/06/201301:26(Xem: 6523)
Phật Giáo Muốn Gì?

phapnan1963_1
PHẬT GIÁO MUỐN GÌ?
Cao Huy Thuần

Pháp nạn năm 1963 mở đầu cho một sự tham dự trực tiếp của Phật giáo vào tình hình của thời cuộc gây nên do chiến tranh và sự lợi dụng chiến tranh để nắm giữ quyền hành của dư đảng ông Diệm. Lần đầu tiên, tên gọi "Phật giáo dấn thân" xuất hiện trên báo chí. Phật giáo làm chính trị chăng?

Xin bàn một chút về lý thuyết, không ra ngoài phạm vi của đề tài năm 1963. Thế nào là "dấn thân"? Năm 1963 chẳng phải là dấn thân đó sao? Như đã nói, các nhà lãnh đạo Phật giáo hồi đó luôn luôn muốn hành động của mình không rời lý thuyết để không ai. Vì vậy, dấn thân của sự kiện năm 1963 cũng như sau năm 1963 là dấn thân trên mặt trận văn hóa, không phải dấn thân vào chính trị. Dấn thân theo nghĩa đó không mới mẻ gì trong lịch sử Phật giáo. Đó chỉ là tinh thần nhập thế trong đạo Phật. Vậy thì, thế nào là xuất thế, thế nào là nhập thế?
Phật giáo xuất thế gian, đúng vậy, nhất là đối với người xuất gia. Chùa chiền thì xây trên núi. Cách sống thì xa lánh cõi trần. "Cạo bỏ râu tóc, làm bậc sa môn, tiếp nhận lấy đạo, thì hãy rời bỏ tài sản thế gian, khất thực vừa đủ, mỗi ngày đứng bóng ăn một bữa, mỗi đêm dưới cây ngủ một lần, thận trọng đừng thêm. Làm cho người u mê tồi tệ chính là ái dục". Phật đã dạy như vậy trong Kinh 42 bài.

Mẫu mực đó đâu phải là của người dấn thân vào những tranh đấu trong xã hội? "Tu " là để giải thoát. Mà người giải thoát là người đã thấy rõ sự vật là vô ngã, vô thường. Thấy rồi thì sinh tâm nhàm chán, cắt bỏ phiền não vô minh, đoạn trừ luân hồi sinh tử. Vậy thì tại sao các ông sư thời 63 biểu tình tuyệt thực? Lý tưởng là diệt khổ, đeo thêm cái khổ chính trị làm chi? Đó là miệng lưỡi của chính quyền trong những năm 1963 để an trí các ông sư trong chùa.

Xuất thế đâu phải vậy! Lấy lý thuyết mà nói, Phật giáo nhìn thực tại dưới hai mặt: một mặt thuộc về tục đế, một mặt thuộc về chân đế, nói nôm na là cái thấy ở cấp dưới và cái thấy ở cấp cao tột.

Ở tục đế, khi chưa giải thoát, ta thấy có sinh lão bệnh tử, có khổ cần phải diệt, có niết bàn để hướng đến. Khi đã giải thoát, khi phiền não đã phá tung, nhận thức thay đổi: những thứ trước đây gọi là khổ, là sinh lão bệnh tử, thì nay được nhận ra không còn là khổ nữa. "Nếu cần sinh ra thì sinh, đến lúc già thì già, nếu phải bệnh thì bệnh, rồi khi chết thì chết". Khổ đã không thấy thì niết bàn cũng không thấy, vì ta đã sống trong đó rồi. An vui, thanh thản, vững chắc trong cái mà trước đây ta gọi là khổ. Ta rời cái thấy về khổ ở tục đế để đạt đến cái thấy về khổ ở chân đế. Và như vậy, niềm vui xuất thế gian không còn là niềm vui đối nghịch với khổ nữa, vì khổ còn đâu nữa mà đối nghịch? Khổ đã không còn thì tất cả đều không còn, kể cả không còn tu. Kinh Bát Nhã nói: "không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không thanh, hương, vị, xúc, pháp" là thế, là tất cả đều không. Sự thật thế gian đã đi sang xuất thế gian. Và vì tất cả đều không nên Kinh nói: giải thoát ra khỏi mọi khiếp sợ.

Nhưng tư tưởng Phật giáo là một tư tưởng biện chứng. Biện chứng cả trong lý thuyết lẫn hành động. Trong lý thuyết, chân đế không rời tục đế. Phải thấy cái khổ ở mức tục đế rồi mới siêu việt cái khổ ở mức chân đế. Không còn thấy cái khổ nữa ở mức chân đế không có nghĩa là không biết có khổ ở mức tục đế. Cái thấy ở xuất thế gian không có nghĩa là không biết cái thấy ở mức thế gian. Có cái này rồi mới biết có cái kia. Khi có cái kia rồi vẫn biết nhân gian còn có cái này. Cho nên xuất thế gian không rời thế gian.

Tư tưởng biện chứng đưa đến hành động biện chứng. Thấy tất cả đều không thì không còn gì là chướng ngại. Ngay đến kẻ thù cũng không còn là kẻ thù. Dưới con mắt của chân đế, kẻ thù chỉ là nạn nhân của khổ mà chính họ không biết. Thì ta phải giải khổ cho họ với lòng từ bi! Căn bản của tranh đấu bất bạo động là như vậy. Thấy kẻ thù không phải là kẻ thù, chỉ là đối phương mà tình thương của ta sẽ làm hóa giải. Không thấy được điều đó thì không hiểu được ngọn lửa Quảng Đức. Thì không thể hiểu được tại sao Vũ Hoàng Chương lại đặt tên cho bài thơ bất hủ của ông về ngài là "Lửa từ bi ". Vì ngài có cái nhìn xuất thế gian nên mới có hành động nhập thế đến mức ấy.

Giữa xuất thế và nhập thế, hai bên qua lại thong dong, không có biên giới. Tôi đọc một đoạn trong kinh Lăng Nghiêm:

"Ngài Trì Địa bồ tát bạch với đức Phật: "Con nhớ xưa làm người xuất gia, bấy giờ đường sá, sông biển, ruộng đất, núi non, tất cả chỗ ấy nơi nào có chi chướng ngại, hại cho sự đi lại và sự chuyên chở, thì con san bằng phẳng, làm cầu cống, lấp hầm hố. Siêng khó như vậy trải qua vô số kiếp. Có ai cần người mang gánh giúp thì con mang gánh trước, đến tận chỗ họ muốn rồi con để xuống, đi ngay, không lấy tiền thuê. Mãi đến thời kỳ đức Tỳ Xá ra đời, bấy giờ thế gian đói khổ lắm, con làm người gánh chở giúp, bất kể xa gần. Chỗ nào xe, đò bị mắc kẹt, thì con rán sức xô đẩy. Quốc chúa nước con lúc đó thiết trai cúng dường đức Tỳ Xá Thế Tôn, con bèn san đắp bằng phẳng đường đi để đón chờ. Khi ngài đi qua, xoa đầu con mà bảo: Hãy bình tâm địa thì thế giới đại địa đều bình".

Đó là nhập thế. Xuất thế ngay lập tức không chướng ngại:

"Nghe lời ấy, tâm trí con tức thì khai ngộ. Con thấy những đan vị cực nhỏ tạo thành thân con cùng với những đan vị cực nhỏ tạo thành vũ trụ đều bình đẳng không sai biệt. Tánh của những đan vị ấy không xúc chạm nhau, cho đến binh đao khí giới cũng đều như vậy, không hề đụng chạm lẫn nhau". Không ở đâu biện chứng xuất thế và nhập thế hiển lộ cụ thể hơn nơi con người Trần Thái Tông và Sư Trúc Lâm. Trần Thái Tông muốn gì khi bỏ kinh đô lên Yên Tử? "Ta suy đi nghĩ lại: chi bằng lui về ở chốn núi rừng, tìm lục Phật pháp để hiểu rõ việc lớn sanh tử, lấy đó để đền đáp công ơn cha mẹ, chẳng hay hơn sao?". Vua nói thêm: "Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế vương đời trước, thịnh suy không tường, cho nên Trẫm đến núi này chỉ cầu làm Phật, chứ không cầu gì khác". Ấy là Trần Thái Tông muốn xuất thế. Và Sư Trúc Lâm, người đã xuất thế rồi, đã ở trên non rồi, khuyên gì nhà vua? Hãy nhập thế! "Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ Hạ trở về, Bệ Hạ không về sao được. Song phải nghiên cứu nội điển, mong Bệ Hạ đừng xao lãng". Nghĩa là hãy nhập thế, nhưng hãy học xuất thế. Nếu ngày nay, ai làm vua làm quan mà biết xuất thế như vậy, cái bả quyền lực phú quý đâu còn ngậm chặt trong lưỡi! Khi vào thì làm đầy tớ cho dân cũng làm như kinh Lăng Nghiêm dặn thế, khi ra thì không vướng ngại, không thấy sai biệt, ra vào với một tâm bình đẳng.

Tôi nhắc một chút lý thuyết như vậy để làm rõ cái ý muốn đanh thép của các vị lãnh đạo phong trào Phật giáo năm 1963. Các vị ấy dấn thân vào một cuộc tranh đấu dù sao cũng dính dáng đến chính trị nhưng họ không muốn vướng mùi bùn chính trị. Trước mắt họ là tấm gương sáng ngời của các vị quốc sư trong lịch sử, vua vời đến để hỏi chuyện chính sự thì nói chính sự, nhưng nói xong thì rút về chốn núi non. Mà chuyện "chính sự" của các quốc sư ấy không phải là thứ chính trị nhỏ nhặt, đó thường là cái thế để giữ nước trường tồn, nghĩa là những nguyên lý mà tính chất văn hóa, đạo lý là căn bản.

Tôi trích vài đoạn phản ánh ý muốn không lay chuyển nói trên có liên quan đến thời sự 1963:

"Tại sao người xuất gia không thể tham gia chính trị và quân sự?

1. Trước hết, dù ở trong trường hợp tự vệ, quân sự cũng vẫn là một hành động trái với nguyên tắc tôn trọng sự sống, huống chi là trường hợp khác. Trong trường hợp tự vệ, vì cái tinh thần vô úy hy sinh sự sống để bảo vệ sự sống, người Phật tử tại gia phải làm, bất đắc dĩ phải làm. Còn người xuất gia thì không thể như vậy vì họ đã là hiện thân của nguyên tắc tôn trọng sự sống của tất cả.

2. Huống chi phương pháp tự vệ không phải chỉ là chính trị và quân sự; chính trị và nhất là quân sự là những điều bất đác dĩ nhất trong tự vệ. Hai người muốn thắng nhau mà phải đánh nhau vẫn là một điều dở. Cho nên người xuất gia, vì lẽ tương quan sinh tồn, nếu có thể, chỉ nên tham gia kinh tế, văn hóa và xã hội mà thôi, còn chính trị và quân sự không những trái với nguyên tắc tôn trọng sự sống, mà còn trái hẳn với nguyên tắc "trên tất cả", không phân biệt chủng tộc, giai cấp của người xuất gia".

Trong một đoạn ngắn mà đã có đến hai lần xác nhận thái độ "bất đắc dĩ". Đấu tranh năm 1963 cũng là bất đắc dĩ mà thôi. Thêm một "bất đắc dĩ" nữa trong đoạn dưới đây:

"Đạo Phật chỉ thừa nhận sự tương quan sinh tồn. Đạo Phật dạy cho người ta thấy ở đời phải tự lập chớ không thể biệt lập. Phật tử không thấy, không tạo nên một đối phương. Vũ trụ là một lò tương quan; không có gì là trung tâm, không có gì là phụ thuộc, hay là ngược lại. Bởi thế cho nên phân ly là tự tạo một ung nhọt, mà chiến đấu (theo nghĩa hẹp) chỉ là tương đối. Chiến đấu phải là một hành động vì bảo vệ sự sinh tồn mà bất đắc dĩ. Nếu biến sự bất đắc dĩ ấy thành sự tuyệt đối cần thiết trong mọi trường hợp, thì chiến đấu sẽ trở thành chiến tranh.

Nhập thế thì chiến đấu hết mình, hy sinh cả mạng sống. Nhưng tuyệt đối phải biết xuất thế để tẩy ngay cả cái khái niệm chiến tranh ra khỏi tâm. Khi bắt đầu khởi động phong trào 63, không mấy ai tin ở thành công. Nhưng bắt buộc chiến đấu thì sẵn sàng chiến đấu, xem thành bại trong chiến đấu giống như thành bại trong công việc hoằng pháp hàng ngày, thành thì tốt, mà bại không chừng lại còn tốt hơn: đó là điều khó hiểu đối với người thường, nhưng đó lại là điều hiển nhiên của hành động trong Phật giáo:

"Chúng ta đã và vẫn sẵn sàng chấp nhận cảnh ngộ khó khăn. Điều đó chúng ta không thiệt, trái lại nữa là đằng khác. Bởi vì việc làm gặp cảnh ngộ dễ dãi thì đó là cảnh ngộ tác thành, chúng ta có công đức gì đâu. Còn nếu chúng ta chỉ biết nỗ lực mà làm thì chúng ta vẫn có công đức; còn việc làm ấy có thành hay bại vì cảnh ngộ chăng nữa, công đức cũng không vì sự thành hay bại ấy mà có hay không có. Ấy là nói về bản thân người làm. Còn nói hậu quả thì thành cố nhiên là tốt, mà bại lại càng tốt hơn. Việc làm nào được gọi là chân chính là phải có sự quy phục của nhân tâm. Mà cảnh ngộ Phật giáo hiện thời, nếu thành thì nhân tâm đã có, mà nếu bại thì nhân tâm lại càng có hơn. Đó là sự thật hiển nhiên".

Hành động trái nghĩa với manh động. Manh động thì rất sợ bại. Mà thường là bại. Nhập thế với cái tâm không sợ bại, vậy mà thường là thắng. Trong hoàn cảnh chính trị và văn hóa cực kỳ khó khăn của năm 1963, mấy ai dám tin vào thành công? Vậy mà Phật giáo vượt qua pháp nạn!

Pháp nạn vượt qua, các nhà lãnh đạo cảnh giác ngay cái bẫy chính trị luôn luôn rình rập các tôn giáo, khẳng định lại lập trường cố hữu của mình với ba nguyên tắc cụ thể:

1. Phật giáo không ủng hộ cũng không chống lại một chính quyền nào; Phật giáo ủng hộ hoặc chống lại các chính sách. Phật giáo ủng hộ chính sách nào tốt. Phật giáo chống lại chính sách nào xấu.

2. Trên tiêu chuẩn nào xét đoán chính sách nào tốt, chính sách nào xấu? Trên tiêu chuẩn phù hợp hay không phù hợp với tiền đồ của Phật giáo và dân tộc. Phật tử không bao giờ chấp nhận các chính sách đưa đến những hậu quả tai hại cho Phật giáo và dân tộc.

3. Phật giáo không nhắm việc nắm chính quyền, dù trực tiếp hay gián tiếp.

Căn cứ trên ba nguyên tắc đó, HT.Thích Trí Quang, lúc đó là Thượng tọa, kết luận: Phật giáo làm hết sức mình để phụng sự tổ quốc và dân tộc, chống lại những ai lợi dụng tôn giáo để tìm cách thống trị chính quyền và dân chúng, và kêu gọi phật tử ủng hộ hết lòng các chính sách tốt và chống lại các chính sách xấu: đó là "sức mạnh" mà người ta có thể tìm thấy trong Phật giáo.

Sức mạnh đó là sức mạnh văn hóa. Đời đời không phải là sức mạnh chính trị mà Phật giáo lánh xa. Bởi vì chính trị không nằm trong bản chất của Phật giáo. "Phật giáo không thích ứng với chính trị mà thích ứng với văn hóa. Phật giáo tồn tại bởi dân tộc, không như tôn giáo khác tồn tại vì chính quyền". Đó là nguyên văn lời khẳng định lặp đi lặp lại bao nhiêu lần trong suốt mùa bão tố 1963 và sau đó. Trước 1963, Hội Phật giáo đã xác định tôn chỉ của mình rõ ràng:

"Vì là một tổ chức tôn giáo, nhất là một tôn giáo dân tộc, hội Phật giáo trung thành với sứ mạng chánh yếu của mình, sứ mạng củng cố và khai thác nền đạo đức của dân tộc. Hội xác nhận rằng điều đó thật là tối hệ trọng đối với dân tộc, vì dân tộc muốn còn là phải còn dân tộc tính, mà dân tộc tính căn bản là nền đạo đức của dân tộc: đó là một sự thực quá rõ ràng bất cứ được nhìn bằng nhãn giới nào".

"Phật giáo và văn hóa của dân tộc": đó không phải là khẩu hiệu suông. Đó là niềm tin sắt đá của người lãnh đạo phong trào 1963. Tin rằng Phật giáo và văn hóa Việt Nam là một. Tin rằng Phật giáo phải luôn luôn tự mình xứng đáng để vẫn là một với Việt Nam. Đạo Phật "nhập thế" là nhập thế vào xã hội, văn hóa, nhắm vào con người mà cho vui, cứu khổ, nhắm vào đạo đức mà phát huy, nhưng đạo Phật "siêu thoát" thế gian, nhất là siêu thoát khỏi chính trị. Đời đời.

Tôi trích dẫn trên đây khá nhiều câu viết của HT.Trí Quang bởì vì lập trường ấy là huyết mạch của phong trào 63. Xuyên qua lập trường ấy, xuyên qua toàn bộ các tác phẩm của vị lãnh đạo này, nổi bật lên một chữ thôi, một chữ tự nó đủ sức cắt nghĩa tất cả tinh hoa mà đạo Phật muốn mang cống hiến cho thời đại: chữ "khác". Trong một thư gửi cho Phật tử Huế, nơi khởi sinh cuộc tranh đấu 1963, chữ ấy là châm ngôn, là lý tưởng của hành động:

"Phật tử Huế phải làm cho đạo mình "khác" đạo kẻ khác, chứ không phải làm cho đạo mình "hơn" đạo kẻ khác - "khác" ở chỗ nêu cao và thể hiện cho được sự khoan hồng và độ lượng của đức tính Từ bi dầu phải thiệt thòi đến cao độ"

Cái chữ "khác" ấy là gia tài văn hóa mà đạo Phật đã để lại trong lịch sử. Thể nhập cái gia tài ấy, Phật giáo Việt Nam tiếp tục viết nên trang sử năm 1963 mà rạng rỡ nhất là ngọn lửa Quảng Đức.

Sự kiện năm 1963 là một khẳng định văn hóa. Tuyệt đối không phải là một phản ứng chính trị.

Giáo sư Cao Huy Thuần
(Người gửi bài: Đông Ba)




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/01/2017(Xem: 8578)
Sáng nay, Jan. 8.2017, tình cờ tôi đọc được trên Google bài [ Sách “Trương Vĩnh Ký, nỗi oan thế kỷ” bị cấm ra mắt tại Đường sách ...] (b). Quý vị có thể đọc thêm cuốn “Trương Vĩnh Ký, nỗi oan thế kỷ”, tác giả là ông Nguyễn Đình Đầu, người viết cẩu thả vô trách nhiệm, mà tôi đã từng biết qua một số bài ông ta viết về Đắc Lộ, Nguyễn Trường Tộ….trước đây. Nay lại được Giáo sư Sử học Phan Huy Lê (5.7.2016) trong Lời Giới Thiệu cuốn sách mới của ông Nguyễn Đình Đầu, đã thăng ông ta lên hàng “Học Giả”. thay vì cẩu thả vô trách nhiệm. Đó cũng là chuyện lạ của “Thế kỷ” nầy và của một Gs sử học có tên quen thuộc.
22/12/2016(Xem: 29251)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
14/12/2016(Xem: 4759)
Việc xử lý như thế cũng hợp tình hợp lý. Đây là lần đầu tiên GH có cách xử lý nghiêm túc, nhưng lại nghiêm túc đối với một tu sĩ vô danh, trong khi còn rất nhiều vụ nổi bậc không kém, một clip đưa hình ảnh tu sĩ mặc áo hậu vàng, tay cầm micro, tay cầm ly rượu hát chung thỉnh thoảng va chạm với cô gái, cũng có clip một vị mặc bộ đồ vàng ngắn hát bài"chim trắng mồ côi" lưu lại nhiều ưu tư cho quần chúng tín đồ, đến độ, mọi người cứ nghĩ - đó là hiện tượng như bao nhiêu hiện tượng xã hội, Phật giáo Việt Nam bây giờ là thế! Những năm trước, một tu si có pháp danh P.N cũng trình diễn nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn trên diễn đàn công cộng tại Đà Lạt. Việc tu sĩ ngày nay có khuynh hướng âm nhạc không ít, nhưng phải xét đến nhiều khía cạnh để có thể chấp nhận, du di hay tuyệt cấm theo giáo luật.
14/12/2016(Xem: 4829)
Chuyện của thế gian, chuyện của ngoại đạo, người luôn tự nhận đang học đòi chánh pháp luôn biết phân biệt đúng sai, và nếu có hành động thì dùng chánh tri kiến Phật để quán tưởng. Nếu người đi trước có sai, kẻ hậu sinh ắt nhận ra ngay để còn biết tránh xa lối mòn ấy mà không giẫm bước thêm một lần thứ hai. Lòng tự trọng vẫn còn nguyên vẹn trong trái tim của một tầng lớp, chủng loại chúng sanh cao cấp có tư duy, còn biết đứng bằng hai chân.
03/11/2016(Xem: 5313)
Trên con đường tu tập, kể cả pháp hành Tôn giáo cũng như pháp hành tâm linh, "sám hối" là cách cơ bản giải quyết những sai phạm đã qua và ngăn ngừa sai quấy phạm phải sắp tới.Đôi khi, có người chọn cách "sám hối" làm pháp hành trì thường nhật để phát khởi lòng từ và thúc liễm thân tâm thường nhật.
03/11/2016(Xem: 4427)
Chỉ còn vài tháng nữa, bước qua 2017, là năm mà GHPGVN tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 8. BTS các Tỉnh Thành, quận Huyện đều tổ chức đại hội để hoàn chỉnh nhân sự trong nhiệm kỳ mới trước khi cử Đại biều ra Hà Nội tham dự. Thế nhưng, những năm gần đây, vấn đề bổ sung nhân sự tại một số địa phương từ cấp Tỉnh Thành đến quận huyện đều gặp phải một số vấn đề bất ổn. 1/ BTS cũ muốn lưu nhiệm nhân sự cũ. Một số BTS, tuy hàng giáo phẩm và chức sắc quá tuổi quy định, nhưng kinh nghiệm điều hành phật sự khá tốt, ngại lớp trẻ lên sẽ không đủ kinh nghiệm và không theo sự chỉ đạo cố vấn của các bậc thầy, nên không muốn thay đổi, cũng có thể không ngoài việc tham quyền cố vị.Từ đó, lục đục nội bộ không thể tránh khỏi.
15/10/2016(Xem: 5829)
Theo thống kê mới nhất của Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM), mỗi năm, Việt Nam có trung bình hơn 100 ngàn người di cư và Việt Nam đang nằm trong top 10 quốc gia có số du học sinh nhiều nhất thế giới.
11/10/2016(Xem: 4864)
Trong cách nhìn của một bộ phận xã hội, có một thực tế ai cũng phải công nhận rằng giới tăng sĩ là những thành phần "đi tu" có lý do, buộc phải khổ hạnh, ép xác, vừa đáng kính vừa chừng mực chỉ để gật đầu chào qua đường; khác với cách nhìn và hiểu của những Phật tửng có cầu học là kính trọng vì là một trong ba ngôi báu do chính đức Phật truyền để lại. Như vậy có hai cách nhìn bài viết này xin được tạm gọi là cách nhìn thứ nhất và cách nhìn thứ hai.
07/10/2016(Xem: 4977)
Một giảng viên Đại học luật ở Hà nội, đứng lớp dạy cho sinh viên về các tôn giáo như: Phật giáo, Thiên chúa Giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Bà La Môn, Đạo Hòa Hảo, Cao đài...không tôn giáo nào trúng hoàn toàn. Phật giáo truyên vào Việt Nam vào thế kỷ thứ ba trước công nguyên theo truyện "Nhất Dạ Trạch" trong tập Lĩnh Nam trích quái kể lại việc Chử Đồng Tử được học đạo Phật với một nhà sư tên là Phật Quang. Như vậy chùa Dâu Bắc Ninh không phải là điểm khởi đầu đạo Phật được truyền nhập như bà giảng viên dạy cho sinh viên, mà là trung tâm Luy Lâu, nơi mà Phật giáo đã phát triển vào đầu công nguyên, tức sau 300 năm khi đạo Phật đã sanh sôi nẩy nở. Thế mà bà cho là ba tông phái của đạo Phật du nhập vào Việt Nam vào thời Bắc thuộc.( sử sách xác định Phật giáo truyền vào Việt Nam trước Trung hoa).
27/09/2016(Xem: 17355)
Việc giải tỏa chùa Liên Trì vừa qua đã tạo nên những làn sóng trái chiều. Tuy sự việc đã rồi, cũng cần nêu lên những nhận định tương phản trong quần chúng để xã hội nắm được tính chất của vấn đề. Trên 10 năm nay, kế hoạch nhà nước xây dựng khu đô thị mới tại quận 2 đã gặp nhiều trở ngại đối với quần chúng và Tôn giáo. Quận 2 được thành lập ngày 01 tháng 4 năm 1997 trên cơ sở tách ra từ 05 xã Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi, Cát Lái, An Khánh, An Phú thuộc huyện Thủ Đức theo Nghị định số 03/NĐ-CP ngày 06/01/1997 của Chính phủ. Quận 2 nằm ở phía Đông của thành phố Hồ Chí Minh, trên tả ngạn sông Sài Gòn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]