Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những "Quyết Định không dễ dàng" chưa nói hết

01/01/201323:08(Xem: 3418)
Những "Quyết Định không dễ dàng" chưa nói hết




NHỮNG “QUYẾT ĐỊNH KHÔNG DỄ DÀNG” CHƯA NÓI HẾT

 

Thích Viên Giáo

 

 

Đại lão Hòa thượng Thích Hộ Giác viên tịch vào ngày 05/12/2012. Ngày hôm sau, 06/12/2012, Hòa thượng Thích Tín Nghĩa, Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ (GHPGVNTNHK) gửi điện thư phân ưu đến Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ (GHPGVNTNHN-HK), Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam (GHTGNTVN) và môn đồ pháp quyến. Qua tuần sau, phái đoàn của GHPGVNTNHK trên dưới 10 vị cũng đã đến phúng viếng và đọc lời cảm niệm bày tỏ đạo tình trước kim quan của Giác linh tân viên tịch vào ngày 12/2/2012.

Bốn ngày sau đó, 16/12/2012, theo bản tin ngày 22/12/2012 của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế (PTTPGQT), trong lễ trà tỳ và cung tiễn kim quan ĐLHT Thích Hộ Giác, TT. Thích Giác Đẳng đại diện môn đồ pháp quyến cung tuyên hành trạng của Giác linh. Hành trạng ấy được tóm lược trong 8 quyết định “không dễ dàng” trong cuộc đời của ĐLHT Thích Hộ Giác, mà quyết định cuối cùng là quyết định liên quan đến sự lựa chọn giữa “Tăng Ni Hải Ngoại” và “duy trì Văn Phòng II Viện Hóa Đạo theo tinh thần Giáo Chỉ số 9 ban hành ngày 8.9.2007” (nguyên văn lời phát biểu được PTTPGQT ghi lại).

Những tưởng đây là cơ hội tốt nhất để TT. Giác Đẳng làm sáng và sạch những gì mà Thầy của mình, ĐLHT Thích Hộ Giác, không thể nói, nhất là vào giai đoạn cuối đời, là giai đoạn u buồn lặng lẽ nhất của Ngài; bởi vì giai đoạn ấy liên quan đến sự phân ly giữa bản thân Ngài với đại đa số Tăng Ni Việt Nam tại hải ngoại, trong đó, nhiều vị là pháp lữ đồng đạo từng chung  vai sát cánh hành đạo, phục vụ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất nhiều thập niên qua.

Những điều khó xử mà TT. Giác Đẳng nêu lên, 7 điều trước tuy khó quyết định nhưng nếu quyết định cách nào thì cũng chỉ ảnh hưởng cuộc đời cá nhân của ĐLHT Thích Hộ Giác. Riêng quyết định cuối cùng, là quyết định liên quan đến số đông, mà số đông ở đây là Tăng đoàn Việt Nam tại hải ngoại, sẽ để lại những dấu ấn không được sáng sủa trong lịch sử, thì đáng tiếc thay, TT. Giác Đẳng chỉ lo “tự vệ” để giữ gìn vị thế của mình trong VPII VHĐ và GHPGVNTNHN-HK, lấy sự nằm xuống của Thầy mình để biện minh cho chính mình và vài người “đồng thuyền” đang còn cố gắng chống đỡ cho con thuyền rã rệu VPII VHĐ.

Chính vì chỉ lo “tự vệ”, phát biểu của TT. Giác Đẳng về những quyết định khó xử của ĐLHT Thích Hộ Giác thì quá thiếu; và về Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại thì quá sai!

Sau đây là những đề nghị bổ sung cho những “quyết định không dễ dàng” đồng thời mổ xẻ các sai lầm trong phát biểu về Tăng Ni Hải Ngoại:

 

1)      Quyết định về hành xử đúng pháp và hợp đạo tình giữa tăng-già:

Phái đoàn đại diện GHPGVNTNHK đã đến phúng viếng tang lễ ĐLHT Thích Hộ Giác không vì lẽ đúng-sai của người nằm xuống, mà đến vì đạo tình, chỉ vì đạo tình mà thôi. Chuyện đúng-sai, chân-giả, hãy để lịch sử mai sau ghi chép. Nghĩa cử của chư vị đại diện GHPGVNTNHK là nghĩa cử đẹp, đúng theo đạo nghĩa thông thường của thế gian, và tất nhiên là thuận hợp với tinh thần hòa hợp, thanh tịnh của Tăng-già. Trong thực tế, việc thể hiện đạo nghĩa làm người, đạo tình Linh Sơn cốt nhục, ai cũng có thể làm được, vì là lẽ tự nhiên. Nhưng quý vị trong Giáo Hội Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) trong nước, quý vị trong GHPGVNTNHN-HK, và Văn Phòng II Viện Hóa Đạo (VPII VHĐ) đã không làm được khi chư vị Hòa thượng nguyên thành viên của Hội Đồng Lưỡng Viện viên tịch (tuần tự theo thời gian: HT. Thích Minh Tuệ, HT. Thích Thuyền Ấn, HT. Thích Thiện Hương, HT. Thích Trí Chơn, HT. Thích Hành Đạo). Chư vị Hòa thượng vừa kể đều là những đồng viện, đồng sự của quý vị trong nhiều thập niên qua. Phải chăng tự mình vạch ra một ranh giới, một vùng trời riêng, để rồi xoay lưng với đạo nghĩa, đạo tình?

Có thể cố ĐLHT Thích Hộ Giác, với tâm lượng nhu hòa, tình cảm, khi hay tin những đồng đạo, đồng viện của mình nằm xuống, đã không khỏi đau xót, muốn bày tỏ một đôi lời, hay nghĩa cử nào đó, mà vì lằn ranh do những người cọng sự và cận sự vẽ ra, đã không thể quyết định, và đã “phải lựa chọn không dễ dàng”, để rồi cuối cùng là im lặng, không phân ưu, không phúng viếng, dù là trên danh nghĩa của VPII VHĐ, hay Chủ tịch HĐĐH GHPGVNTNHN-HK, hoặc GHTGNTVN. Điều này khó hay dễ? Nếu dễ, hóa ra không đạo nghĩa, đạo tình. Nếu khó, sao TT. Giác Đẳng lại thiếu sót nêu lên?

 

2)      Ứng xử khi cộng sự của mình vu khoát, phỉ báng Tăng đoàn hải ngoại:

Từ khi Giáo chỉ số 2 ban hành (29/11/2005), loại trừ quá bán thành viên Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo trong nước, và Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo chỉ số 9 ban hành (08/9/2007), giải tán toàn bộ các GHPGVNTN tại hải ngoại (chỉ giữ lại VPII VHĐ); các cộng sự và cận sự của ĐLHT Thích Hộ Giác đã mở một chiến dịch trường kỳ (qua những bài viết hoặc video clips hội thảo, họp báo, đăng trên các diễn đàn tôn giáo, chính trị, trong đó nhiều bài vẫn còn lưu trữ trên trang queme.net và PTTPGQT) bôi nhọ, phỉ báng và chụp mũ thân Cộng / Cộng sản lên hầu hết Tăng Ni Việt Nam hành đạo tại hải ngoại không hệ thuộc VPII VHĐ. Những người này đã sử dụng những ngôn ngữ vô lễ, kém văn hóa, nhắm vào Tăng Ni, mở đường cho ngoại đạo và ác đảng công kích và mạt sát hàng ngũ xuất gia Phật giáo. Đối với những hành động phá hòa hợp tăng, phỉ báng Tăng bảo ấy, vị lãnh đạo tối cao của GHPGVNTN tại hải ngoại là ĐLHT Thích Hộ Giác, vốn là người nhu hòa, vô tránh, hẳn là sẽ khó xử. Nếu TT. Thích Giác Đẳng cho rằng Ngài không khó xử, mà hoan hỷ với các hành vi và ngôn ngữ của phát ngôn nhân VHĐ và PTTPGQT, hóa ra ĐLHT cũng đồng thuận sự phỉ báng Tăng Ni hay sao? Còn nếu Ngài khó xử, không bằng lòng với các thuộc cấp, sao TT. Thích Giác Đẳng không nêu lên?

 

3)      Quyết định về việc ký ban hành “Thông Bạch về Tuyên Bố Chung” của 104 thành viên các GHPGVNTN tại hải ngoại:

Vào ngày 26.9.2008, HT. Thích Hộ Giác ký ban hành “Thông bạch về bản Tuyên Bố Chung cùng sự tiếm danh GHPGVNTN của một số Tăng Ni hải ngoại”, trong đó có nhận định như sau:

“Nói về số lượng chữ ký dưới bản “Tuyên Bố Chung” ký ngày 9.9.2008 được phổ biến, thì tổng cộng gồm có 124 chữ ký Tăng, Ni, Cư sĩ tại Canada, Úc Đại Lợi – Tân Tây Lan, Âu châu và Hoa Kỳ. Ngoại trừ một số ít là cựu thành viên của GHPGVNTN, còn đa số các vị khác không thuộc GHPGVNTN và Văn Phòng II Viện Hoá Đạo. Do đó, Văn phòng II Viện Hoá Đạo, là cơ quan tối cao và đại diện duy nhất ở hải ngoại của Viện Hoá Đạo, GHPGVNTN, dưới sự lãnh đạo nghiêm minh của Đức cố Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hoà thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hoá Đạo, không thể xác nhận hư thực về tên tuổi hay quá trình tu học của đa số chư Tăng, Ni, Cư sĩ ký tên dưới Tuyên Bố Chung ngày 9.9.2008.”

Nội dung và lời lẽ trên không thể là của ĐLHT. Thích Hộ Giác mà do phát ngôn nhân VHĐ soạn thảo. Con số 124 là đếm sai, không quan trọng; mà quan trọng nhất là một vị cao tăng lãnh đạo giáo hội lại có thể ngoảnh mặt làm ngơ với những đồng đạo mà hầu hết không xa lạ với mình, đã từng cộng sự với mình từ trong nước mấy thập niên trước, hoặc ngoài nước ít nhất trên 16 năm kể từ khi thành lập GHPGVNTNHN-HK (năm 1992, tính đến năm 2008). Nói “đa số các vị khác không thuộc GHPGVNTN và Văn Phòng II Viện Hóa Đạo” và “không thể xác nhận hư thực về tên tuổi hay quá trình tu học của đa số chư Tăng, Ni, Cư sĩ ký tên” là nói trái sự thực, không lẽ vị cao tăng ấn ký vào thông bạch với cương vị là Phó Tăng Thống có thể làm được? Xin hỏi TT. Giác Đẳng, quyết định ký vào thông bạch (do ai soạn sẵn) này, chấp nhận cho ban hành, im lặng không cãi chính khi đã ban hành, là dễ hay khó? Nếu là dễ, hóa ra dối; nếu là khó, sao TT. Giác Đẳng thiếu sót không nêu?

 

4)      Quyết định đệ trình tấn phong phẩm vị Hòa thượng cho TT. Thích Viên Lý:

ĐLHT Thích Hộ Giác đã viết văn thư ngày 29/6/2011, đệ trình Viện Tăng Thống tấn phong TT. Thích Viên Lý lên phẩm vị Hòa thượng. Văn thư này đã được ĐLHT Thích Quảng Độ duyệt xét và chuẩn y tức thì trong cùng ngày 30/6/2011 (chỉ trong vài giờ đồng hồ, vì khi California ngày 29 thì tại Việt Nam đang là ngày 30).

Nếu miễn cưỡng phủ nhận 104 Tăng Ni và Cư sĩ ký trên trong Tuyên Bố Chung với lý do “không thể xác nhận hư thực về tên tuổi hay quá trình tu học” để làm vừa lòng những người soạn thảo thông bạch nói ở trước, thì chí ít ĐLHT Thích Hộ Giác cũng nắm vững “tên tuổi hay quá trình tu học” của TT. Viên Lý (tuổi Thân, sinh năm 1956), từ khi đến Mỹ trên hai mươi năm chưa hề an cư kiết hạ (ngay cả khi Tổng vụ Tăng Sự của GHPGVNTNHN-HK tổ chức an cư hàng năm cũng không tham dự), thì vì lý do gì mà vội vàng viết văn thư đệ trình tấn phong phẩm vị Hòa thượng (cho TT. Viên Lý vào năm 2011, khi tuổi đời chỉ mới 55 và hạ lạp không chưa đủ 40)? Một là không nắm vững, tức là tự mâu thuẫn với thông bạch phủ nhận 104 thành viên ký tên trong Tuyên Bố Chung ở trước; hai là, nắm vững “quá trình tu học” của TT. Viên Lý là chưa đủ tiêu chuẩn và phẩm hạnh làm Hòa thượng, nhưng vẫn phải ký văn thư đệ trình. (Lý do nào thì không phải chỉ có ông Võ Văn Ái, TT. Viên Lý và TT. Giác Đẳng biết, mà người ngoài nếu chịu khó theo dõi tin tức thì biết ngay việc tấn phong tháng 6/2011 là để chuẩn bị cho Đại Hội Khoáng Đại IX vào ngày 18-20/11/2011: TT. Viên Lý lên nắm chức vụ Chủ tịch HĐĐH GHPGVNTNHN-HK thay thế ĐLHT Thích Hộ Giác, và TT. Giác Đẳng lên nắm chức vụ Tổng Thư Ký 20 năm của TT. Viên Lý). Một văn thư đệ trình thiếu thẩm xét như thế không những tự dối mà còn dối cả Viện Tăng Thống và Hội Đồng Lưỡng Viện. Vậy xin hỏi TT. Giác Đẳng trong trường hợp này, trước yêu cầu của ông Võ Văn Ái và TT. Viên Lý, và thậm chí của TT. Giác Đẳng, thì ĐLHT Thích Hộ Giác có khó xử hay không? Nếu quyết định dễ dàng thì hóa ra hành xử thiếu công minh, đệ trình không đúng người; còn nếu khó, sao TT. Giác Đẳng không nêu lên?

 

Bây giờ hãy phân tích về những phát biểu của TT. Thích Giác Đẳng về Tăng Ni Hải Ngoại và Ngày Về Nguồn:

Theo bản tin phổ biến của PTTPGQT, trong lời cung tuyên hành trạng của ĐLHT Thích Hộ Giác, trưa ngày 16/12/2012, TT. Giác Đẳng đã nói như sau:

“Năm 2006, Hòa thượng Thích Minh Tâm tại Pháp ra một thư mời để thành lập tổ chức ‘Tăng Ni Hải ngoại’. Hòa thượng Hộ Giác Ngài hiểu là việc đó không nằm trong ý chí của Hội đồng Lưỡng Viện (Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo) trong nước. Nhất là Hội đồng Lưỡng Viện không được thông báo điều này, mà bản thân của Hòa thượng Minh Tâm còn là một thành viên của Văn phòng II Viện Hóa Đạo. Ngài đã cử chúng tôi sang Paris ba lần để thuyết phục, cốt làm sao sự việc ấy đừng diễn ra. Nhưng việc bất thành.”

Có mấy điều sai trong đoạn trên:

-          Nói năm 2006 là quá sai! Ngày 06 và 07/01/2007 chư tôn đức Tăng Ni nhân dịp giỗ Tổ Liễu Quán tại Phật Học Viện Quốc Tế mới có buổi họp về tăng sự, đưa đến quyết định tổ chức Hiệp Kỵ (thay vì chỉ giỗ Tổ Liễu Quán) hàng năm. Đến ngày 18/01/2007 mới có thư trình chính thức của HT. Thích Minh Tâm, được đề cử làm Trưởng ban Điều Hợp Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại, và thông báo Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ I sẽ được tổ chức từ ngày 21 đến 23 tháng 9 năm 2007 tại Chùa Pháp Vân, Canada, do TT. Thích Tâm Hòa làm Trưởng ban Tổ chức.

-          Ngoài thư trình ngày 18/01/2007, không hề có bất cứ “thư mời để thành lập tổ chức Tăng Ni Hải Ngoại” nào như TT. Giác Đẳng nói. Nếu có, xin TT. Giác Đẳng hãy trưng dẫn, đừng đặt điều sau lưng ĐLHT Thích Minh Tâm khi Ngài không có mặt trong tang lễ hôm ấy.

-          Nói rằng “thành lập tổ chức” là sai, mà gọi Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại là một tổ chức cũng sai nốt! Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại là cách gọi khiêm tốn thay vì gọi là Tăng đoàn Việt Nam Hải Ngoại. Đây không phải là tổ chức mà là một tên gọi tạm thời để minh danh một tập thể Tăng Ni sinh hoạt tại hải ngoại, cần có sự kết hợp, gặp gỡ hàng năm qua Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư để trao đổi tăng sự, phật sự. Tăng Ni sinh hoạt tại hải ngoại với tăng sự và phật sự thì có cần phải xin phép hay báo cáo với Giáo hội không? Tăng đoàn bao trùm tất cả Tăng Ni thuộc các giáo hội, hệ phái, tông môn, không lẽ đi xin phép Giáo hội. Dù nhiều Tăng Ni là thành viên Giáo hội, nhưng các Tăng Ni khác không thuộc Giáo hội thì sao, chẳng lẽ họ tập hợp để giỗ Tổ và họp tăng, bàn phật sự mà cũng phải xin phép Giáo hội?

-          Chuyện cử TT. Giác Đẳng “sang Paris ba lần để thuyết phục” cũng không thể tin được, nếu không muốn nói thẳng là chỉ là sự bịa đặt. Có hai lý do để không tin: a) Nếu cần “thuyết phục”ĐLHT Thích Minh Tâm, thì đích thân ĐLHT Thích Hộ Giác làm việc ấy, TT. Giác Đẳng trong vị thế hậu học có đủ tư cách để thưa chuyện với bậc trưởng thượng như ĐLHT Thích Minh Tâm hay không? b) Ba lần ấy nếu thực sự có xảy ra thì chỉ trong vòng năm 2007, từ tháng 01 đến tháng 9. TT. Giác Đẳng đã đi Paris ba lần hay sao, và đã gặp ĐLHT Thích Minh Tâm tại đâu, ngày tháng nào, có ai chứng kiến hay không? Tăng Ni tham dự 6 lần Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư chưa hề nghe ĐLHT Thích Minh Tâm đề cập đến sự kiện “ba lần để thuyết phục” này.

 

Kế tiếp, TT. Giác Đẳng nói:

“Từ Đại hội Tăng Ni Hải ngoại của Hòa thượng Thích Minh Tâm tổ chức hai ngày 6 và 7.1.2007 tại thành phố Toronto ở Canada, cho đến Đại hội Về Nguồn ngày 21.9.2007, chúng tôi nhớ hai cú điện thọai cuối cùng, một Ngài gọi Hòa thượng Thắng Hoan, một Ngài gọi Hòa thượng Trí Chơn để nói về điều này hầu ngăn cản sự phân ly không mấy tốt đẹp vào lúc nhà cầm quyền Cộng sản còn đàn áp khốc liệt Giáo hội trong nước. Nhưng việc cũng không thành.”

Phát biểu trên cũng sai, quá sai:

-          Không hề có “Đại Hội Tăng Ni Hải Ngoại” tổ chức hai ngày 6 và 7.1.2007 tại thành phố Toronto ở Canada! Chỉ có 2 ngày giỗ Tổ Liễu Quán tại Phật Học Viện Quốc Tế như đã nói ở trước.

-          Cũng không hề có “Đại Hội Về Nguồn” nào cả. Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ nhất, qua “Thông bạch Cung Thỉnh Tham Dự Ngày Về Nguồn” của ĐLHT. Thích Minh Tâm (ký ngày 01/5/2007), cũng như qua “Thư Cung Thỉnh Tham Dự Ngày Về Nguồn – Ngày Tương Ngộ của Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại” do TT. Thích Tâm Hòa, Trưởng ban Tổ chức (ký ngày 15/3/2007), đều không hề nói gì về một “đại hội” mà chỉ là 3 ngày họp tăng và cúng Tổ.

-          “Hai cú điện thoại cuối cùng” mà TT. Giác Đẳng nói, liên quan 3 vị mà 2 vị đã viên tịch, thật khó kiểm chứng! Tuy nhiên, điều đó không quan trọng, mà điểm đáng nói ở đây là TT. Giác Đẳng đã cố tình gán cho Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại cái lỗi làm cho “phân ly” Giáo hội tại hải ngoại. Cái lỗi, đúng hơn là cái “tội” làm phân ly Giáo hội và phá sự hòa hợp của Tăng đoàn hải ngoại, nằm trong chính Thông Bạch Hướng Dẫn Thi Hành Giáo Chỉ số 9 mà lãnh đạo tối cao của Viện Hóa Đạo trong nước (VHĐ) là ĐLHT Thích Quảng Độ và ngoài nước (VPII VHĐ) là ĐLHT Thích Hộ Giác phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. TT. Giác Đẳng cũng như các nhân sự VPII VHĐ cho đến nay vẫn tiếp tục biện minh, bào chữa cho cái “tội” này. Bởi vì ai cũng biết soạn giả của Thông Bạch kia không phải là ĐLHT Thích Quảng Độ và ĐLHT Thích Hộ Giác.

 

“Và cuối cùng Ngài làm một quyết định lớn, đó là tuân thủ sự chỉ định của Đức Đệ tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ trong việc duy trì Văn phòng II Viện Hóa Đạo theo tinh thần Giáo chỉ số 9 ban hành ngày 8.9.2007.”

Quyết định cuối cùng mà TT. Giác Đẳng nêu ở đây rất mơ hồ và không hợp lý về thời gian: Thư trình của ĐLHT Thích Minh Tâm về việc tổ chức Ngày Về Nguồn của Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại chính thức phổ biến ngày 18/01/2007, trong khi Giáo Chỉ số 9 ký sau đó 8 tháng (ngày 08/9/2007). Vậy theo TT. Giác Đẳng thì ĐLHT Thích Hộ Giác đã chọn lựa và quyết định vào lúc nào? Vả lại, đường hướng sinh hoạt và mục đích của Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại đã nêu rõ trong Thư trình ngày 18/01/2007, chỉ là sự tương ngộ và trao đổi tăng sự của Tăng Ni tại hải ngoại nhân dịp cúng kỵ chư Tổ; khi nhận được Thư trình này, ĐLHT Thích Hộ Giác phải vui mừng, hoan hỷ chứ sao lại “quyết định không dễ dàng”?

Còn nếu cho rằng tính theo thời điểm tổ chức Ngày Về Nguồn đầu tiên (21, 22 và 23/9/2007) tại Chùa Pháp Vân, Canada, thì cũng không đúng, vì Giáo Chỉ số 9 ban hành ngày 08/9/2007 trước Ngày Về Nguồn 2 tuần lễ. Vậy thì khi ĐLHT Thích Hộ Giác đã chọn lựa “tuân thủ sự chỉ định của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ trong việc duy trì Văn phòng II Viện Hóa Đạo” vào ngày 8/9/2007 thì lúc ấy Ngày Về Nguồn đầu tiên chưa xảy ra, có gì gọi là khó xử, khó quyết định!

 

Thiết nghĩ, cuộc đời của ĐLHT Thích Hộ Giác có nhiều điểm và nhiều giai đoạn rất đẹp, rất sáng, rất thành tựu; nhưng kể từ năm 2005 đến cuối cuộc đời, thật đúng là có những điều “không dễ dàng”quyết định đối với Ngài. Khi Ngài nằm xuống, chỉ một lần cuối trong tang lễ là cơ hội để người đệ tử thân cận thay Thầy mình nói lên những điều khó hoặc không thể nói. Cơ hội ấy, TT. Giác Đẳng là người duy nhất có thể nắm lấy, lại không nói cho Thầy, mà chỉ nói cho mình và vài người tại vị “vô thời hạn” trong VPII VHĐ. Đạo nghĩa và đạo tình Thầy-trò qua sự việc này, dường như nhẹ hơn những chiếc ghế rất nhiều.

Cơ hội cuối cùng không nói được thì đành chờ lịch sử nói thay. Đáng tiếc!

 

Hoa Kỳ, ngày 01/01/2013
Thích Viên Giáo

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2011(Xem: 3065)
Phật Giáo Hoà Hảo được khai sáng từ năm 1939 trong dòng lịch sử cận đại của dân tộc - một nền đạo quy nguyên Phật pháp, với phương thức hành đạo đơn giản, không chuộng hình tướng lễ mễ, rườm rà mà cốt yếu hướng về tâm, chủ trương nhập thế tích cực vào mọi phương diện của xã hội, đã nhanh chóng phù hợp với phong hoá nhân sinh vốn mộc mạc, thuần phác ở vùng châu thổ sông Cửu Long.
23/02/2011(Xem: 3407)
Chính thức ra đời từ tháng 11-1926 với một lễ rất long trọng (gọi là Khai minh Đại đạo) tại chùa Gò Kén, làng Long Thành,[1] đạo Cao Đài dần dần hình thành những cộng đồng Cao Đài khác nhau trong lịch sử phát triển của nền tôn giáo bản địa mới mẻ. Mỗi cộng đồng bao gồm nhiều tín đồ với những sinh hoạt tu hành lâu đời kết tập. Sự thấm nhuần giáo lý và hàm dưỡng trong việc thực hành pháp môn trải qua thời gian mấy mươi năm đã hình thành những sắc thái riêng trong nếp nghĩ, trong hành vi, trong tình cảm của các tín đồ Cao Đài. Như vậy là có tâm lý của người tín đồ Cao Đài, nếu hiểu thật đơn giản rằng: Tâm lý là những đặc điểm về tình cảm và hành vi của một cá nhân, một nhóm người, hay một hoạt động.[2]
19/02/2011(Xem: 3030)
(VOV) - Hình ảnh những tảng thịt xâu, móc trên giá, máu còn nhỏ đỏ tươi, có miếng trơ xương, có miếng còn nguyên da lủng liếng ở một góc “chợ” trên đường vào Chùa Hương thật gây phản cảm cho người hành hương. Mới đây Đài Truyền hình Trung ương đã chiếu một phóng sự ngắn, lên tiếng về việc thịt thú rừng được treo, bày bán vô tội vạ gần thắng cảnh Hương Sơn. Hãy khoan nói về việc đó có thể là thịt thú rừng thuộc danh mục cấm săn bắn, việc có thể thú nhà giả thú rừng.v.v… Ở đây tôi chỉ muốn nói đến những hình ảnh gây phản cảm đối với khách hành hương.
19/02/2011(Xem: 3914)
Tôi chỉ là một Tu Sĩ tầm thường nhất, cho nên khi đọc những bài viết mang tính công kích, bài trừ mê tín về Hoa Trời. Tôi không chắc là Hoa Mạn đà la hay Mạn thù sa, cho nên tôi tạm gọi là Hoa Trời. Khi tôi nhận được các E-mail của Quý Ngài, cũng như vào các Websites thấy hình ảnh Hoa Trời, và nhất là lúc hành lễ Phật Ngọc có vòng hào quang xuất hiện trên trời. Lúc đó tôi rất mừng và vô cùng hoan hỷ để được chút Công Đức Tùy Hỷ. Vì mình không có góp công, góp của trong việc thỉnh Phật Ngọc Hòa Bình, nhưng có tâm tuỳ hỷ cũng được Tùy Hỷ Công Đức. Do đó, tôi thấy niềm tin của tôi phát khởi mạnh thêm, làm cho tôi tinh tấn thêm. Những Phật tử cũng điện thoại và E-mail cho tôi, thấy những hiện tượng này, làm cho gia đình họ vô cùng hoan hỷ và phát lòng tin mạnh mẽ để tinh tấn hơn. Những hình ảnh đó, đã có tác dụng làm cho bao nhiêu triệu người Phật tử trên thế giới vui tươi. Giúp họ rơi rụng đi biết bao nhiêu nhiệt não, bao nhiêu đau khổ bởi cuộc đời. Những hình ảnh ấy, đã làm cho tâm hồn h
19/02/2011(Xem: 3323)
Trong Ca Khúc Đông và Tây (The Ballad of East and West), văn hào người Anh Rudyard Kipling (1865–1936) đã viết “Ôi, Đông là Đông và Tây là Tây, cả hai chẳng nên hề gặp gở” (Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet) đã trở nên câu nói thời thượng diễn tã sự dị biệt khó hòa giải giữa hai nền văn hóa.
19/02/2011(Xem: 3677)
Ai đó dựng ra câu chuyện “sư cô trụ trì” cải đạo theo Chúa là người có tâm lý cạnh tranh tôn giáo kém lành mạnh, nếu không muốn nói là hành vi thiếu lương thiện, và những người lợi dụng tình cảnh đau đớn, lúc mê lúc tỉnh của bệnh nhân để đạt mục đích cưỡng đoạt niềm tin tôn giáo là phi đạo đức.
12/02/2011(Xem: 6681)
Có rất nhiều hình tượng để chúng ta hư cấu, mà thông qua đó gởi gấm tâm sự của mình, hay phê phán hoặc giáo dục thói hư tật xấu của xã hội. Phật, Bồ-tát và thánh tăng là những mẫu người toàn thiện của xã hội, những bậc vĩ nhân của nhân loại (chứ không phải của chủ nghĩa lý tưởng hóa).
23/01/2011(Xem: 3690)
Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác chính là tôn trọng mình. Ai đem sự tôn trọng đi thì nhận lại sự tôn trọng. Đó là định luật nhân quả. Người viết xin được mở đầu câu chuyện trong tuần kỳ này bằng câu thành ngữ “Cáo mượn oai hùm” thường ngụ ý để chỉ cho những người ưa lòe bịp, hù dọa mọi người bằng quyền uy của người khác để tự tung tự tác. Chuyện kể, có một con hùm đói bụng đang tìm cách săn mồi thì gặp ngay một con cáo. Cáo thấy nguy bèn nói: “Này anh hùm, anh đừng có ý định ăn thịt tôi. Trời đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Anh mà ăn tôi là làm trái ý của trời! Không tin, tôi đi đằng trước, anh đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Quả nhiên, khi cả hai cùng bước đi, mọi vật nhìn thấy đều chạy tán loạn. Con cáo lấy uy của trời để lừa hùm, rồi lại mượn hình ảnh của hùm để dương dương tự đắc với những loài vật khác.
08/01/2011(Xem: 4046)
Chẳng bao lâu nữa, đám lửa bùng lên từ Mỹ Đình kia, hay từ bất cứ tư gia nào, sẽ lan hết khắp mọi miền đất nước, và lan cả đến xung quanh chùa Quán Sứ, hay mỗi ngôi chùa khác. Mùa Noel năm nay, bên cạnh các hoạt động tưng bừng không khí ăn chơi, hội hè, mua bán thường thấy ngoài xã hội, chúng ta còn chứng kiến sự trỗi dậy của Tin lành, qua một loạt các sự kiện lễ hội mừng giáng sinh được tổ chức vào giờ chót khắp nơi trên đất nước, đặc biệt tại TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội.
06/01/2011(Xem: 4288)
Những người mưu toan cải đạo tín đồ Phật giáo sang các tôn giáo phương Tây luôn săn tìm những không gian thuận lợi để tổ chức thực hiện việc cải đạo. Tất cả mọi địa điểm đều được chú ý đến, đặc biệt là những địa điểm công cộng như trường học, bệnh viện, kể cả những không gian di động, nhưng có nhiều thời gian để hành sự, như xe đò đường dài, xe lửa…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567