Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cùng Tìm Hiểu Cái Gì Đằng Sau Hiện Tượng Này: Công Kích Phật Giáo Để Làm Gì?

09/01/201223:01(Xem: 3974)
Cùng Tìm Hiểu Cái Gì Đằng Sau Hiện Tượng Này: Công Kích Phật Giáo Để Làm Gì?
duytue_talaai
Bài viết này tiếp tục trích dẫn và bàn luận những vấn đề từ nội dung quyển sách ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm” của tác giả Duy Tuệ*

Loạt bài viết này của chúng tôi, trước hết, xin được hiểu như một loạt bài điểm sách, bình luận nội dung sách, với tựa đề quyển sách liên hệ đã nêu ở trên, được tiếp thị đến tôi trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, như đã miêu tả ở bài trước.

Với những khía cạnh nội dung mà chúng ta đã bàn luận, quyển ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”từ trang 108 trở đi có một số ý lặp lại với những ý đã được nêu trong nội dung những đoạn đã trích làm dẫn chứng trong bài trước, thậm chí, có khi lặp lại 2 lần trong một trang. Có thể hiểu đó là vì tác giả muốn nhấn mạnh đến điều đã nói. Vì vậy, chúng tôi vẫn trích dẫn đúng theo sách để việc tham khảo của bạn đọc được toàn vẹn.

Dưới đây là những đoạn được tiếp tục trích từ quyển sách nói trên, mang nội dung ghi nhận đánh giá khác thường về Phật giáo.

- Trang 122, đoạn trên: “Nếu Bát Chánh đạo giải quyết được sự thay đổi có tính hình tướng đó thì tại sao người ta, quý Phật tử và tăng ni học mãi vẫn không giải quyết được”.

- Trang 122, đoạn dưới: “Nếu nói Bát Chánh Đạo là chìa khóa giải quyết vấn đề khổ đau, thì tại sao mấy ngàn năm qua không phát huy tác dụng? Tám con đường đó là để giải quyết tình trạng của cái đầu mỗi người, chứ không phải lên thiên đàng hay về cõi Phật như kinh sách nói, nhưng tại sao không giải quyết được?”.

- Trang 124: “Ngày xưa người ta còn nghi ngờ, ít người hiểu nên người hiểu được gọi là chứng đắc. Ngày nay, ai cũng biết rồi thì không có chứng đắc nữa”.

- Trang 134: “CÓ CẦN ĐI TU NỮA KHÔNG? Nếu đã thấy rõ được như vậy, quý vị nghĩ xem có cần tu nữa không? Có cần tập trung hàng trăm hày ngàn ngàn lại để tu không? Mà liệu tập trung vậy có đạt được kết quả gì không? Tôi nói vấn đề này để cứu quý vị và những người đang vô minh. Tốn tiền, thời gian nhưng chắc chắn không có hiệu quả… Nhưng việc tập trung lại cho đông người trong khoảng thời gian tu học là làm việc khác, chứ không phải để thấy Phật của mình. Làm việc khác thì phải trả giá bằng tiền, sự phiền muộn, sức khỏe, thời gian. Phải bỏ nhà cửa, công ăn việc làm, thậm chí còn làm phiền người khác. Tập trung như thế chỉ để mua sự an lạc tạm thời, rồi đâu lại vào đó”. Người trích dẫn nhấn mạnh câu “Tôi nói vấn đề này để cứu quý vị và những người đang vô minh”.

- Trang 182: “Phần một, hàng ngày nhiều người dùng khái niệm nhân quả mang tính tiêu cực nhiều hơn là tích cực. Ví dụ, khi họ bị ai đó lường gạt tình hay tiền thì nạn nhân hay đem luật nhân quả ra để an ủi mình bằng cách: “Đời trước mình gây khổ đau cho người ta bây giờ đời này mình phải trả.”. Hoặc trường hợp hiểu lầm khác là sao mình làm phước mà cứ mang họa. Đem chuyện này hỏi các nhà sư, kể cả các sư ngoại mà tín đồ Phật giáo Việt Nam tin tưởng như sự linh thiêng, các sư ấy lại nói: “Họa là do nhân xấu kiếp trước gây ra bây giờ mới trổ.Còn phước mình tạo bây giờ kiếp sau phúc mới đến”. Việc giải thích và hiểu tiêu cực như vậy đã gây ra biết bao hoang mang cho người Phật tử.”.

- Trang 189: “Ví dụ, tôi nói: “Đức Phật chắc gì đã ra bốn cửa thành, chắc gì thấy người ta khổ mà đi tìm đường cứu khổ, biết đâu đức Phật lúc ấy đang có vấn đề gia đình nên bỏ đi thì sao?”. Điều đó có thể làm những người quá tôn vinh đức Phật bị “sốc”.

- Trang 206: “Quý vị thấy, sau khi đạt được sự an lạc thì đức Phật ngồi suy tư không biết có ai hiểu những điều mình muốn truyền trao hay không? Ở đây, tôi muốn nói đến sự nguy hiểm của suy nghĩ, bởi chính nó đã dẫn đến bế tắc khiến cho ông ấy muốn từ bỏ xác thân. Tuy nhiên, sau khi nghe chư thiên nói sẽ có người hiểu được thì ông ấy bắt đầu có niềm tin, ước mơ và cố gắng đi trao truyền”.

Những đoạn trích cho chúng ta cái nhìn khá rõ về những điều tác giả quyển ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm” nói về Phật giáo, đặc biệt là một số hoạt động của Phật giáo Việt Nam hiện đại. Thái độ của tác giả đối với đạo Phật hiện hình với những nhìn nhận tiêu cực nhất, nặng nề nhất.

Tại Việt Nam, một cách tư duy như thế và phát biểu cực đoan như thế về đạo Phật, có thể coi là lần đầu tiên, kể từ Alechxandre de Rhodes.

Nếu theo cái cách mà tác giả Duy Tuệ nhận định thì qua những lượng từ và cụm từ chỉ lượng “đa số”, “không ít” thì nói chung, Tăng Ni Phật tử Việt Nam, phần lớn đều là những kẻ “vô minh”, “hiểu sai”, thậm chí làm những việc phi pháp “cho vay nặng lãi”, “buôn bán kim cương, đô la, vàng bạc trong chùa”, “chỉ xuất gia bên ngoài chứ không xuất gia bên trong”… Riêng đối với xuất gia, thì tác giả Duy Tuệ cho rằng là việc sai lầm “hết đời này đến đời khác”, người trích dẫn nhấn mạnh.

Những lời nói như vậy, thiết tưởng, trước hết là sự lăng mạ đối với hàng giáo phẩm Phật giáo Việt Nam, đối với Tăng Ni Phật tử Việt Nam.

Nhưng mục tiêu của sự lăng mạ không chỉ là những người theo đạo Phật ở những vị trí khác nhau nói chung, mà trên hết gồm cả Đức Phật và giáo pháp.

Chúng ta xem qua những đoạn nói về đức Phật và giáo pháp của Phật dẫn lại từ sách của Duy Tuệ, với cách gọi nước đôi “Đức Phật/ông ấy” thì quá rõ.

Cái nội dung xúc phạm Phật giáo, Đức Phật, Phật pháp đó là lần đầu tiên sau hơn nửa thiên niên kỷ, tức hơn năm trăm năm. Nhưng cái cách làm như của tác giả Duy Tuệ, trước hết qua quyển sách ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”,chưa nói đến những lời trong các bài gọi là pháp âm, mà sự xúc phạm Phật giáo, Đức Phật, Phật pháp, hàng giáo phẩm Phật giáo Việt Nam lên đến mức nặng nề hơn rất nhiều, có thể nói là chưa từng có ai làm như thế. Vừa làm như giảng giải, quảng bá giáo pháp Đạo Phật, vừa lại hủy báng ở mức cao nhất có thể.

Alechxandre de Rhodes rõ ràng đứng ở vị trí người đi cải đạo tín đồ Phật giáo, từ bên ngoài mà hủy báng Đạo Phật, nhổ tận gốc rễ văn hóa bản địa.

Còn ở đây, tác giả Duy Tuệ di chuyển qua lại một cách mâu thuẫn giữa 2 vị trí đối lập nhau. Có nhiều chỗ, tưởng chừng ông nói như một người có đạo tâm thực sự, rồi bất ngờ, lại ngoặc ngược. Diễn biến như thế xảy ra như chúng ta đã thấy trong ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”,cũng như xuyên suốt toàn bộ những gì ông ta nói và viết quả là một kỹ thuật đặc biệt, với một cường độ đặc biệt!

Bà Thanh Hải, tuy cũng tự phong chứng đắc, tự xưng Supreme Master – Vô Thượng sư, có lúc mặc y phục hóa trang thành Phật Quan Âm để chụp ảnh, quay phim, đưa lên truyền hình, nhưng vẫn chưa có lời lẽ đến mức như tác giả Duy Tuệ (đó là chỉ giới hạn trong quyển sách mà chúng ta đang bàn luận, còn trong những chương trình audio – video của “đạo sư” Duy Tuệ, thì bà Thanh Hải tuy là “Supreme Master” vẫn không nghĩa lý gì, thấm tháp gì so với “Master” Duy Tuệ) trong việc xúc phạm Phật giáo.

Để vấn đề ngày càng sáng tỏ, mong bạn đọc cùng suy nghĩ, tìm hiểu xem tại sao Duy Tuệ lại công kích Phật giáo? Để làm gì” Và tại sao ông ta lại sử dụng các cách nước đôi như vậy?

Minh Thạnh
(Giác Ngộ)

(*) Công ty Minh Triết và Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin xuất bản năm 2011

BÀI VIẾT LIÊN QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ:
Cùng Tìm Hiểu Cái Gì Đằng Sau Hiện Tượng Này?
ÔNG DUY TUỆ PHỈ BÁNG TAM BẢO PHẬT, PHÁP VÀ TĂNG NHƯ THẾ NÀO?GS001

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2011(Xem: 3081)
Phật Giáo Hoà Hảo được khai sáng từ năm 1939 trong dòng lịch sử cận đại của dân tộc - một nền đạo quy nguyên Phật pháp, với phương thức hành đạo đơn giản, không chuộng hình tướng lễ mễ, rườm rà mà cốt yếu hướng về tâm, chủ trương nhập thế tích cực vào mọi phương diện của xã hội, đã nhanh chóng phù hợp với phong hoá nhân sinh vốn mộc mạc, thuần phác ở vùng châu thổ sông Cửu Long.
23/02/2011(Xem: 3436)
Chính thức ra đời từ tháng 11-1926 với một lễ rất long trọng (gọi là Khai minh Đại đạo) tại chùa Gò Kén, làng Long Thành,[1] đạo Cao Đài dần dần hình thành những cộng đồng Cao Đài khác nhau trong lịch sử phát triển của nền tôn giáo bản địa mới mẻ. Mỗi cộng đồng bao gồm nhiều tín đồ với những sinh hoạt tu hành lâu đời kết tập. Sự thấm nhuần giáo lý và hàm dưỡng trong việc thực hành pháp môn trải qua thời gian mấy mươi năm đã hình thành những sắc thái riêng trong nếp nghĩ, trong hành vi, trong tình cảm của các tín đồ Cao Đài. Như vậy là có tâm lý của người tín đồ Cao Đài, nếu hiểu thật đơn giản rằng: Tâm lý là những đặc điểm về tình cảm và hành vi của một cá nhân, một nhóm người, hay một hoạt động.[2]
19/02/2011(Xem: 3052)
(VOV) - Hình ảnh những tảng thịt xâu, móc trên giá, máu còn nhỏ đỏ tươi, có miếng trơ xương, có miếng còn nguyên da lủng liếng ở một góc “chợ” trên đường vào Chùa Hương thật gây phản cảm cho người hành hương. Mới đây Đài Truyền hình Trung ương đã chiếu một phóng sự ngắn, lên tiếng về việc thịt thú rừng được treo, bày bán vô tội vạ gần thắng cảnh Hương Sơn. Hãy khoan nói về việc đó có thể là thịt thú rừng thuộc danh mục cấm săn bắn, việc có thể thú nhà giả thú rừng.v.v… Ở đây tôi chỉ muốn nói đến những hình ảnh gây phản cảm đối với khách hành hương.
19/02/2011(Xem: 3934)
Tôi chỉ là một Tu Sĩ tầm thường nhất, cho nên khi đọc những bài viết mang tính công kích, bài trừ mê tín về Hoa Trời. Tôi không chắc là Hoa Mạn đà la hay Mạn thù sa, cho nên tôi tạm gọi là Hoa Trời. Khi tôi nhận được các E-mail của Quý Ngài, cũng như vào các Websites thấy hình ảnh Hoa Trời, và nhất là lúc hành lễ Phật Ngọc có vòng hào quang xuất hiện trên trời. Lúc đó tôi rất mừng và vô cùng hoan hỷ để được chút Công Đức Tùy Hỷ. Vì mình không có góp công, góp của trong việc thỉnh Phật Ngọc Hòa Bình, nhưng có tâm tuỳ hỷ cũng được Tùy Hỷ Công Đức. Do đó, tôi thấy niềm tin của tôi phát khởi mạnh thêm, làm cho tôi tinh tấn thêm. Những Phật tử cũng điện thoại và E-mail cho tôi, thấy những hiện tượng này, làm cho gia đình họ vô cùng hoan hỷ và phát lòng tin mạnh mẽ để tinh tấn hơn. Những hình ảnh đó, đã có tác dụng làm cho bao nhiêu triệu người Phật tử trên thế giới vui tươi. Giúp họ rơi rụng đi biết bao nhiêu nhiệt não, bao nhiêu đau khổ bởi cuộc đời. Những hình ảnh ấy, đã làm cho tâm hồn h
19/02/2011(Xem: 3340)
Trong Ca Khúc Đông và Tây (The Ballad of East and West), văn hào người Anh Rudyard Kipling (1865–1936) đã viết “Ôi, Đông là Đông và Tây là Tây, cả hai chẳng nên hề gặp gở” (Oh, East is East, and West is West, and never the twain shall meet) đã trở nên câu nói thời thượng diễn tã sự dị biệt khó hòa giải giữa hai nền văn hóa.
19/02/2011(Xem: 3710)
Ai đó dựng ra câu chuyện “sư cô trụ trì” cải đạo theo Chúa là người có tâm lý cạnh tranh tôn giáo kém lành mạnh, nếu không muốn nói là hành vi thiếu lương thiện, và những người lợi dụng tình cảnh đau đớn, lúc mê lúc tỉnh của bệnh nhân để đạt mục đích cưỡng đoạt niềm tin tôn giáo là phi đạo đức.
12/02/2011(Xem: 6699)
Có rất nhiều hình tượng để chúng ta hư cấu, mà thông qua đó gởi gấm tâm sự của mình, hay phê phán hoặc giáo dục thói hư tật xấu của xã hội. Phật, Bồ-tát và thánh tăng là những mẫu người toàn thiện của xã hội, những bậc vĩ nhân của nhân loại (chứ không phải của chủ nghĩa lý tưởng hóa).
23/01/2011(Xem: 3715)
Tôn trọng niềm tin tôn giáo của người khác chính là tôn trọng mình. Ai đem sự tôn trọng đi thì nhận lại sự tôn trọng. Đó là định luật nhân quả. Người viết xin được mở đầu câu chuyện trong tuần kỳ này bằng câu thành ngữ “Cáo mượn oai hùm” thường ngụ ý để chỉ cho những người ưa lòe bịp, hù dọa mọi người bằng quyền uy của người khác để tự tung tự tác. Chuyện kể, có một con hùm đói bụng đang tìm cách săn mồi thì gặp ngay một con cáo. Cáo thấy nguy bèn nói: “Này anh hùm, anh đừng có ý định ăn thịt tôi. Trời đã giao cho tôi làm chúa tể muôn loài. Anh mà ăn tôi là làm trái ý của trời! Không tin, tôi đi đằng trước, anh đi đằng sau, thử hỏi có con vật nào trông thấy tôi mà không sợ?”. Quả nhiên, khi cả hai cùng bước đi, mọi vật nhìn thấy đều chạy tán loạn. Con cáo lấy uy của trời để lừa hùm, rồi lại mượn hình ảnh của hùm để dương dương tự đắc với những loài vật khác.
08/01/2011(Xem: 4070)
Chẳng bao lâu nữa, đám lửa bùng lên từ Mỹ Đình kia, hay từ bất cứ tư gia nào, sẽ lan hết khắp mọi miền đất nước, và lan cả đến xung quanh chùa Quán Sứ, hay mỗi ngôi chùa khác. Mùa Noel năm nay, bên cạnh các hoạt động tưng bừng không khí ăn chơi, hội hè, mua bán thường thấy ngoài xã hội, chúng ta còn chứng kiến sự trỗi dậy của Tin lành, qua một loạt các sự kiện lễ hội mừng giáng sinh được tổ chức vào giờ chót khắp nơi trên đất nước, đặc biệt tại TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội.
06/01/2011(Xem: 4305)
Những người mưu toan cải đạo tín đồ Phật giáo sang các tôn giáo phương Tây luôn săn tìm những không gian thuận lợi để tổ chức thực hiện việc cải đạo. Tất cả mọi địa điểm đều được chú ý đến, đặc biệt là những địa điểm công cộng như trường học, bệnh viện, kể cả những không gian di động, nhưng có nhiều thời gian để hành sự, như xe đò đường dài, xe lửa…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567