Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảnh giác với những người núp bóng Chánh Pháp để truyền bá tà pháp

26/12/201110:07(Xem: 2929)
Cảnh giác với những người núp bóng Chánh Pháp để truyền bá tà pháp

CẢNH GIÁC
VỚI NHỮNG NGƯỜI NÚP BÓNG CHÁNH PHÁP
ĐỂ TRUYỀN BÁ TÀ PHÁP

HỎI: Cách đây gần 2 năm vợ chồng tôi ăn chay trường. Nguyên nhân là tự dưng tôi không thể ăn được thịt cá, thế là tôi ăn chay. Còn chồng tôi trước đó có tìm đọc một số kinh sách, nghe giảng pháp, bắt đầu có hướng tu tập tại gia theo pháp môn Niệm Phật, khi thấy tôi ăn chay trường nên cùng ăn chay luôn. Tình cờ tôi gặp một người cũng ăn chay trường và tu tập nhiều năm. Khi thấy chúng tôi ăn chay và niệm Phật thì chú ấy rất vui mừng và đưa cho chúng tôi nhiều sách, đĩa hướng dẫn tu tập...

Rồi một hôm chú ấy đến nhà tôi, truyền cho vợ chồng tôi 5 câu chú, cách quán âm thanh, ánh sáng và nói rằng: “Đây là pháp môn Quán Âm Nhĩ Căn Viên Thông của Bồ tát Quán Thế Âm”. Khi đó vợ chồng tôi chưa quy y Tam bảo, và chú ấy nói: “Vậy là các cháu coi như đã quy y rồi” đồng thời chú ấy chính là minh sư của chúng tôi. Trong lúc nhận tâm ấn tôi cảm thấy khá ngột ngạt, không có sự vững tâm lắm, linh cảm có điều gì đó bất ổn.

Một lần khác, chú ấy bảo tôi mua một đôi tượng kỳ lân để chú ấy đến trì chú, thổi linh vào đôi tượng ấy thành những vị hộ pháp bảo vệ gia đình, thu hút linh khí. Và khuya hôm ấy chú ấy làm lễ cho đôi tượng, lễ vật thì hương đèn hoa quả chay tịnh, có bát nước và nhành liễu để sái tịnh. Trong lúc chú ấy đọc thần chú vào từng bức tượng thì tôi có nhìn thấy trong phút chốc một màn sương khói trắng mờ bao phủ các bức tượng và một đốm ánh sáng vàng chợt lóe lên. Và từ đó đến nay ở mấy bức tượng kỳ lân đó, mỗi khi tĩnh tâm tôi luôn nhìn thấy có khói trắng bốc lên. Chú ấy gọi đó là “linh khí”. Cũng trong hôm đó, chú ấy còn dạy chúng tôi cách quán tưởng Phật, Bồ tát để cứu độ giải thoát cho tất cả vong linh gia tiên của chúng tôi nữa.

Vấn đề là ở chỗ sau đó ít lâu chúng tôi đã đến chùa quy y. Và tôi cũng phát hiện ra pháp môn mà chú ấy truyền cho chúng tôi là của bà Thanh Hải. Và chú ấy nói: “Pháp môn bà Thanh Hải chính là pháp môn Quán Âm Nhĩ Căn Viên Thông của Bồ tát Quán Thế Âm trong kinh Thủ Lăng Nghiêm”. Tôi không muốn nhận xét về bà Thanh Hải vì chưa từng gặp gỡ tiếp xúc nhưng thấy bà ấy trên mạng trang điểm mĩ miều (trông còn như đã từng phẫu thuật thẩm mỹ), nhuộm tóc vàng, uốn xoăn, mặc đồ tơ tằm nên tự trong lòng tôi thấy bà ấy không phù hợp với hình ảnh người của Phật pháp vốn khiêm nhường, từ bi và không trang điểm, xức nước hoa, uốn nhuộm tóc. Tôi đã quy y Tam bảo nên nhất định không dính dáng đến các pháp môn mà tôi cho rằng không phải là Chánh pháp.

Nhưng giữa tôi và chồng tôi lại nảy sinh bất hòa sau khi quy y. Chồng tôi vẫn tu tập theo cách “quán âm” mà chú ấy hướng dẫn: Ngồi xổm (chồm hỗm) hoặc ngồi nghế chống tay, bịt chặt lỗ tai, lắng nghe quan sát âm thanh trong đầu. Chồng tôi không đọc 5 câu chú “tâm ấn” nữa nhưng vẫn áp dùng cách thực hành theo cách quán âm đó. Anh ấy nói đã đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm và cho rằng những âm thanh mà anh ấy nghe được trong lúc “quán âm” đúng với những gì viết trong kinh Lăng Nghiêm. Và anh ấy cho rằng mình đang thực hiện đúng “thiền quán âm thanh” của kinh Lăng Nghiêm. Xin quý Báo cho tôi biết cách thực hành pháp môn Quán Âm Nhĩ Căn Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm là như thế nào? Liệu có đúng như chồng tôi đang thực hành hay không?

Chồng tôi hiện vẫn giữ và đọc những cuốn sách của chú ấy đưa như Sant Mat, Câu Thông Thượng Đế… và coi chú ấy là “minh sư, chân sư” vì trong những cuốn sách đó có nói “ai truyền được âm thanh cho mình thì đó là vị minh sư”. Có một điều nữa tôi thấy bất bình là vị “minh sư” này nói với tôi rằng chồng tôi cùng căn cơ với con gái nuôi của chú ấy. Và bảo tôi phải tạo điều kiện cho chồng tôi và cô ấy “nhập thất” cộng tu một thời gian, như vậy sẽ hiệu quả “vượt bậc” cho việc tu tập của chồng tôi. Tất nhiên là tôi phản đối vì tôi chưa thấy pháp môn nào mà “nhập thất” một nam một nữ chung nhau cả. Và bởi những mâu thuẫn đó mà vợ chồng tôi lục đục cãi nhau liên tục. Chồng tôi vốn dĩ là người hiền lành, tốt bụng và rất có niềm tin với Phật pháp, chăm chỉ tìm hiểu và thực hành kinh sách.

Về phần tôi, từ lúc nhận tâm ấn tôi luôn cảm thấy có gì đó “rờn rợn” bất ổn. Từ lúc chú ấy trì chú vào đôi kỳ lân bày ở cửa ra vào nhà khiến tôi luôn cảm thấy ghê ghê trong lòng. Khi ở nhà một mình, khi trời tối tắt điện tôi luôn có cảm giác sờ sợ khi đi lại trong nhà mình. Tôi cũng cảm thấy có cái gì đó vô hình cứ cản trở mình mỗi khi cầm tràng hạt định niệm Phật khi ở nhà một mình (nhưng ít nhiều gì thì tôi vẫn niệm, thường là vào đầu hoặc giữa giờ chiều - giờ ấy tôi mới rảnh). Còn khi đầy đủ cả nhà thì tối nào chúng tôi cũng niệm trước khi đi ngủ.

Tôi có đặc điểm là từ nhỏ đã nghe trong đầu mình tiếng “hát” mà sau này mới biết là tiếng tụng kinh, niệm Phật. Và nhất là tiếng “hát” Nam mô A Di Đà Phật thì rất hay và rõ nét cả nhạc đệm (sáo, đàn bầu, đàn tranh…) và tiếng người niệm đồng thanh tập thể thành giai điệu - như ai đó để cái đài (máy hát) trên đỉnh đầu tôi vậy. Đã có một thời gian dài tôi cũng lo lo “không biết đó là tiếng ở đâu ra” nhưng mỗi khi mệt mỏi, nhức đầu, mất ngủ tôi lại nằm “bật đài” lên nghe thì thấy dễ chịu và ngủ liền. Kể cả khi tôi đi lại trên đường, tôi cũng nghe thấy tiếng “hát” ấy và đôi khi cất tiếng hát theo.

Và giờ đây tôi đang lo không biết đôi tượng kỳ lân nhà tôi là thế nào? Liệu có phải chú ấy đã phái âm binh ở nhà tôi để khiến chúng tôi theo pháp môn của chú ấy hay không? Bây giờ tôi phải làm thế nào để gia đình tôi trở thành gia đình Phật tử hiền hòa, tuyệt đối không dính dáng ngoại đạo, tà ma, âm binh? Tôi phải làm gì với đôi tượng kỳ lân ấy? Tôi bắt đầu thấy sợ vị “minh sư” kia vì không ít lần chú ấy nói rằng: “Tôi chỉ cần gọi một tiếng là có mấy ông to bà lớn đi bằng đầu gối đến đây ngay, không nghe tôi là chỉ có chết!”. Tôi sợ chú ấy đã làm gì đó ở nhà mình để bây giờ nếu tôi không nghe theo thì gia đình sẽ tan nát, gặp nguy hiểm. Xin quý Thầy cứu giúp gia đình tôi. Tôi xin chân thành đội ơn sâu nặng.

(DIỆU MINH, Đống Đa - Hà Nội)

ĐÁP:

Bạn Diệu Minh thân mến!

Chúng tôi đã cho đăng toàn văn lá thư của bạn để tất cả chúng ta đều thấy rất rõ rằng, những môn đệ của bà Thanh Hải vẫn âm thầm tiếp xúc với từng người, len lỏi vào từng nhà, núp bóng Bồ tát Quán Thế Âm, lợi dụng Chánh pháp để truyền bá đạo của mình. Không những thế, họ còn sử dụng bùa chú (lạm xưng là giáo pháp của Mật tông) để mê hoặc và thậm chí còn dọa dẫm kiểu xã hội đen “Không nghe tôi là chỉ có chết” đối với những ai không tin thuận hoặc phản kháng lại họ.

Trước hết, bạn cần bình tĩnh và tinh tấn gia tăng công phu niệm Phật nhiều hơn. Tự thân bạn đã có sự huân tu niệm Phật sâu dày trong tiền kiếp nên từ nhỏ tiếng niệm Phật mà bạn ngỡ là tiếng “hát” đã lưu xuất trong tâm. Bạn cần khôi phục lại công phu tu niệm có sẵn của mình (xem Không niệm vẫn niệm, Tuần báo Giác Ngộ, số 619, tr.27) để giữ tâm thanh tịnh và tiếp nhận thêm năng lực hộ trì của Tam bảo. Đây là nội lực vững chải của tự thân để đối kháng lại và đánh bạt những tà pháp đến từ bên ngoài. Kinh nghiệm của bạn “lúc nhận tâm ấn tôi cảm thấy khá ngột ngạt, không có sự vững tâm lắm, linh cảm có điều gì đó bất ổn” đã chứng minh điều ấy. Bạn chỉ cần nhất tâm niệm Phật thì không có bất cứ thế lực (tà pháp, âm binh) nào có thể xâm nhập và phá hoại được.

Kế đến, bạn và cả gia đình cần quán triệt tư tưởng rằng, mình đã quy y Tam bảo, là Phật tử thì chỉ tu tập theo giáo pháp của Đức Phật. Bạn đã đúng khi “nhất định không dính dáng đến các pháp môn mà tôi cho rằng không phải là Chánh pháp”. Việc “chú ấy” nói pháp “quán âm” của bà Thanh Hải chính là pháp môn Quán Âm Nhĩ Căn Viên Thông của Bồ tát Quán Thế Âm (theo kinh Thủ Lăng Nghiêm) là hoàn toàn hư dối. Bởi pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông chính là pháp “phản văn, văn tự tánh” (không đuổi theo âm thanh mà trở ngược lại tánh nghe), tức là từ cái nghe để trở về tự tánh của mình.

HT.Thích Thiện Hoa luận giải về pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông như sau: “Bắt đầu từ khi cái nghe đối với thanh trần không khởi phân biệt theo thanh trần, nên thanh trần tự vắng lặng; xong còn cái nghe. Đến giai đoạn thứ hai là cái nghe (năng, sở) cũng hết, xong còn cái hết. Đến tầng thứ ba không chấp ở nơi hết, xong còn cái biết hết. Đến tầng thứ tư là cái biết đó cũng không, xong còn cái không. Nên đến tầng thứ năm là cái không đó cũng không còn. Lúc bấy giờ các cái vọng niệm phân biệt chấp trước đều hết, thì chân tâm thanh tịnh tự hiện bày; cũng như các cặn đục đã hết, thì tánh nước trong tự hiện. Mười phương các Đức Phật hay các vị đại Bồ tát tu hành, chỉ có một con đường duy nhất là trừ hết vọng thì chân hiện bày, như lau gương sạch bụi, thì ánh sáng tự hiện, thế gọi là thành Phật, hay là chứng Đại Niết-bàn” (Đại cương kinh Lăng Nghiêm).

Trong khi pháp môn “quán âm”, theo bà Thanh Hải, là phương pháp thiền định về ánh sáng và âm thanh nội tại của giáo phái Surat Shabd Yoga (Sant Mat) ở Ấn Độ, chứ không phải pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của Phật giáo. Quán âm đây có nghĩa là quán sát chấn động lực của âm thanh bên trong. Chính nhờ ánh sáng bên trong và âm thanh nội tại mà giao tiếp được với Thượng đế. Lắng nghe cho đến khi nghe và thấy được… âm thanh và ánh sáng thiên đàng, là đắc đạo. Pháp môn “quán âm” này là từ vọng đi đến vọng, không phải từ vọng trở về chơn như pháp Nhĩ Căn Viên Thông, nên việc “Lấy âm thanh sắc tướng cầu Phật, là kẻ theo tà đạo, không thể thấy được Phật” (kinh Kim Cang).

Do đó, bạn phải khuyến cáo chồng nếu tin tưởng vả tu tập theo giáo pháp của Đức Phật thì nên từ bỏ ngay pháp tu “quán âm” của bà Thanh Hải, vì đó không phải Chánh pháp. Mặt khác, không chỉ ghê sợ “chú ấy” mà phải kiên quyết cắt đứt mọi quan hệ, giao lưu với ông ta. Riêng với cặp tượng kỳ lân, bạn cũng nên tống tiễn chúng ra khỏi nhà. Sau khi tẩy trừ tất cả “tà pháp, âm binh”, bạn nên sắm sửa hoa hương cúng Phật, ông bà và tốt nhất nên trì tụng một bộ kinh, sám để cầu an gia đạo. Bạn và chồng bạn cần thể hiện tinh thần vô úy (không sợ hãi) của người Phật tử, một lòng niệm Phật và kiên quyết tẩy trừ tà giáo để tinh chuyên hơn với Chánh pháp và tịnh hóa gia đạo bình an.

Qua sự việc vị “minh sư” mượn kinh Thủ Lăng Nghiêm để dễ dàng thuyết phục Phật tử, dùng bùa chú để mê hoặc những ai cả tin, mượn thần linh để hù dọa người nhẹ dạ… nhằm truyền đạo của mình, lại còn hướng dẫn nam nữ “nhập thất, cộng tu” để đạt hiệu quả vượt bậc, theo quan điểm Chánh pháp, rõ ràng vị ấy là tà sư đang truyền bá tà đạo. Hàng Phật tử phải hết sức cảnh giác, hết sức đề phòng và kịch liệt phản đối những cách tu ma mị được khéo léo nguỵ trang, núp bóng Phật giáo.

Chúc bạn vững tin!

TỔ TƯ VẤN (tuvangiacngo@yahoo.com
(Nguồn: Giác Ngộ)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/06/2011(Xem: 6981)
Tôi đến Úc giữa năm 1998, không theo diện du học mà được bảo lãnh theo diện nhà truyền giáo (Minister of Religion). Mình hiện là phó trụ trì tu viện Quảng Đức tại Melbourne, nơi có khoảng 50.000 người Việt định cư. Ngoài công tác chuyên môn của một Tăng sĩ, hiện tại mình đang theo học năm thứ 2 cử nhân ngành social work tại Đại học Latrobe (http://www.latrobe.edu.au. Sau khi tốt nghiệp ngành này, có thể làm việc cho các bộ, sở Chính phủ (Government Departments), bệnh viện và trung tâm sức khỏe cộng đồng (Public Hospitals and Community Health Centres) cơ sở tôn giáo và trung tâm phúc lợi xã hội (Religious and Community Welfare Agencies); chính quyền địa phương (Local Government).....
26/05/2011(Xem: 4080)
Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lí luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hoà dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lí giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều giới chức Hoa Kì đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến còn diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt trận Dân tộc Gỉải phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mĩ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mĩ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Q
16/05/2011(Xem: 5644)
Ngày 30-4-2011 vừa qua, Thời Đại Mới có mở một cuộc đàm thoại nội bộ về nhu cầu nghiên cứu các phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam trước đây. Sau buổi đàm thoại, chúng tôi có yêu cầu anh Ngô Vĩnh Long viết lại những ý kiến của anh thành bài và yêu cầu anh Cao Huy Thuần tóm tắt quan điểm mà anh đã phát biểu. Dưới đây là tóm tắt đàm thoại của anh Cao Huy Thuần.
11/05/2011(Xem: 5796)
1. Người Nhật thà thích người da đen, chứ nhất định không chịu thích chúng ta, vì người Trung Quốc mất tinh thần lâu rồi. 2. Mọi người đều cười người Nga, nhưng tôi biết nước Nga sau này sẽ phát triển, vì ở đó người ta dù bị đói 2 ngày thì vẫn xếp hàng, còn chúng ta dù chỉ có 2 người thì cũng chen lấn đến mức không thể đóng cửa xe bus.
09/05/2011(Xem: 5114)
Duy Tuệ đẩy mức độ công kích Phật giáo lên rất cao so với Bà Thanh Hải, cực đoan hơn, quá khích hơn. Ông Duy Tuệ không chỉ muốn leo lên mức “minh sư thời đại” như bà Thanh Hải, mà muốn “thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm”, bôi đen quá khứ, phỉ nhổ truyền thống, phủ nhận Phật giáo cả trong hiện tại lẫn lịch sử.
12/04/2011(Xem: 4448)
‘ Tôi muốn biết Thượng đế đã tạo nên thế giới này như thế nào.’- Einstein ‘Tôi không cần đến giả thiết này’- Pierre Laplace trả lời Napoleon Bonaparte
25/03/2011(Xem: 4231)
Bất kỳ tôn giáo, giáo phái, hay học thuyết nào xuất hiện trên đời, cũng đều có lập trường, tư tưởng và mục đích riêng. Mỗi trường phái đều có nhận xét, đánh giá của mình về các trường phái khác. Ở đây, bằng cái nhìn của một người theo đạo Phật, chúng ta thử phân tích đường lối hành đạo của giáo phái Thanh Hải. Điều đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu là Pháp Môn Quán Âm của họ.
10/03/2011(Xem: 4257)
Tác phẩm "The Buddhist Conquest of China", xuất bản từ năm 1959, cũng đủ chứng tỏ tác giả, Erik Zurcher, là một trong vài sử gia sáng giá nhất của Tây phưông về Phật giáo, nhất là về Phật giáo Trung Quốc. Dưới đây là một bài tham luận của ông tại hội nghị chuyên đề được tổ chức bởi Pháp Quốc Học hội (Collège de France) (*2), ngày 23 và 25.2.1988 (*3). Bị chinh phục bởi kiến thức quảng bác và cách so sánh rất tinh tế của tác giả, giúp thấy được những khác biệt nền tảng trong quá trình phổ biến và phát triển của Phật giáo và của Catô giáo tại Trung Quốc, nên dịch ra đây với hy vọng người đọc sẽ rút ra được những điều bổ ích. Đây là bản hiệu chính của bản dịch tháng 5.1993 (đã đăng trên Bông Sen Âu châu, tháng 6.1993).
08/03/2011(Xem: 5677)
Thế giới đang chuyển mình để bước vào thế kỷ 21. Giáo hội Thiên Chúa La Mã cũng đang chuyển mình để Bước qua ngưỡng cửa hy vọng. Sự chuyển mình của Giáo Hội La Mã đã khởi sự từ đầu thập niên 60 dưới triều đại Giáo Hoàng John 23 bằng Đại hội Công Đồng Vatican 2 vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Giáo Hoàng này là một người có tinh thần canh tân và là người nhìn xa trông rộng. Ngài được bầu lên thay Giáo Hoàng Pius 12 vào ngày 28 tháng 10 năm 1958 khi đó đã 76 tuổi. Đúng ba tháng sau ngày nhậm chức, vào ngày 25-1-1959 Ngài công bố ba quyết định lớn: 1- Mở một hội nghị của giáo khu La Mã thuộc Tòa thánh. 2- Mở một cuộc hội nghị Công Giáo toàn thế giới (Công Đồng Vatican 2). 3- Tổng xét lại các nghi thức phụng vụ.
24/02/2011(Xem: 6444)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567