Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tịnh thất, biệt thất, biệt thư

31/03/201500:56(Xem: 5910)
Tịnh thất, biệt thất, biệt thư


Thời Phật còn tại thế, nơi tu tập của cộng đồng tu sĩ, được gọi là Tịnh xá, chung quanh Tịnh xá, mỗi vị có một am thất riêng cho từng cá nhân được gọi là tịnh thất. Nơi thất của đức Phật được gọi là Hương thất. Tuy tên gọi khác nhau, đều được kiến tạo bằng tranh, tre và đất, ít khi làm bằng gỗ.

Khi Phật giáo truyền qua các nước như Trung hoa, Nhật bản, Việt nam, Hàn quốc, Thái lan, Miến điện, Tích lan, campuchea, Lào…nơi thờ tự và tu tập được gọi là chùa. Những đại già lam chuyên tu thiền gọi là Thiền viện. Riêng hệ phái Khất sĩ, vẫn giữ hình thức tu tập và hành trì khất thực, lối kiến trúc chỗ thờ Phật hình bát giác, các am thất chung quanh dùng để chư Tăng an trú, ngôi Tam bảo đó vẫn được gọi tên hồi thời Phật còn tại thế là Tịnh xá.

Quy cách xây dựng cho mỗi am thất theo luật Tỳ kheo trong “13 giới Tăng tàn”: Thứ 6, giới làm nhà quá mức (20).- Nếu Tỷ-kheo tự tìm cách làm nhà chứ không có thí chủ, tự làm cho mình, thì phải làm đúng mức. Mức ở đây là dài bằng 12 gang tay của Phật, rộng bằng 7 gang tay của Ngài. Lại phải thỉnh chư Tỷ-kheo chỉ định nơi chỗ. Chư Tỷ-kheo chỉ định nơi chỗ không tai nạn và không chướng ngại. Nếu Tỷ-kheo nơi chỗ tai nạn và chướng ngại mà tự tìm cách làm nhà chứ không có thí chủ, tự làm cho mình, không thỉnh chư Tỷ-kheo chỉ định nơi chỗ, lại làm quá mức, thì phạm tăng-già bà-thi-sa.

Thứ 7, giới không thỉnh chỉ định (21) .- Nếu Tỷ-kheo muốn làm nhà lớn mà có thí chủ, làm cho mình, thì phải thỉnh chư Tỷ-kheo đến chỉ định nơi chỗ. Chư Tỷ-kheo nên chỉ định nơi chỗ không tai nạn và không chướng ngại. Nếu Tỷ-kheo nơi chỗ tai nạn và chướng ngại mà làm nhà lớn, có thí chủ, làm cho mình, nhưng không thỉnh chư Tỷ-kheo đến chỉ định nơi chỗ, thì phạm tăng-già bà-thi-sa.

Thứ 20, giới lợp nhà quá mức.- Nếu Tỷ-kheo làm phòng hay nhà lớn, có cửa cánh, cửa sổ, và những đồ trang trí khác, thì chỉ bảo lợp tranh chừng hai hay ba lớp. Lợp quá thì phạm ba-dật-đề.(90 giới đọa)

Trong giới bản tân tu của Làng Mai ghi: * Giới  Tăng  thân  giải  cứu (Tăng-già-bà-thi-sa) 36 giới

23- Vị nữ khất sĩ nào ly khai tăng thân, đứng ra lập am cốc hoặc chùa một mình mà không có phép của  tăng  thân,  vị  ấy  phạm  giới  Tăng  thân  giải cứu.

Giới  Buông  bỏ  và  Phát  lộ (Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề)

28- Vị nữ khất sĩ nào nằm giường nệm sang trọng, vị ấy phạm giới Buông bỏ và Phát lộ.

29- Vị nữ khất sĩ nào trang trí phòng ốc của mình sang trọng và đầy dẫy tiện nghi như nhà thế tục, vị ấy phạm giới Buông bỏ và Phát lộ.

Với trào lưu sinh hoạt ngày nay, theo Phật dạy:- một số giới điều tiểu tiết không quan trọng, có thể lượt bỏ, vì thế, việc kiến tạo đạo tràng, tu viện, tinh xá, chùa…tùy theo quốc độ, thổ nhưỡng, tập quán từng nơi mà thích ứng. Ngày nay không thể kiến trúc mây tre lá như xưa khi mà vật liệu nặng đang thông dụng, dễ tìm và rẽ hơn vật liệu thiên nhiên. Dân đông, đất hẹp, không thể mỗi vị một am cốc riêng như thuở xưa, do vậy, Tăng phòng, Tăng xá cho tập thể Tăng chúng cũng được kết cấu từng dãy bao quanh nơi thờ Phật.

Tuy cơ sở vật chất phát triển theo đà tiến hóa của xã hội, các bậc chân tu vẫn giữ được “tam thường bất túc” “thiều dục tri túc”. Phòng ốc đơn giản, chiếc đơn vừa đủ nằm, không nệm, không lạm dụng tiện nghi. Các phương tiện cần thiết được sử dụng như một nhu cầu cần phải có chứ không xem như để hưởng thụ. 

Không thiếu các danh Tăng trong các ngôi chùa nguy nga vẫn duy trì một đời sống đạm bạc. Các Tăng phòng trong những ngôi chùa lớn vẫn bảo đảm những tiện nghi cần thiết cho sinh hoạt chư Tăng nhưng không quá xa hoa phí phạm. Tuy nhiên, một số ít cá nhân tạo lập Tam bảo riêng, đã cho phép mình thừa hưởng một cuộc sống xa hoa không cần thiết, cũng từ đó, nhất là tu sĩ trẻ, đã vượt xa giới luật để lại tai tiếng đang tiếc cho Phật giáo.

Ngoài tịnh thất riêng cho từng vị, còn có biệt thất, gọi là biệt thất, thực ra cũng chẳng khác am cốc, cũng một cái đơn bằng tre hoặc bằng gỗ, một cái bàn để vật dụng, ngoài ra không có thứ nào giá trị của đời thường. Biệt thất dành riêng cho vị chuyên thiền định, những vị nhập thất dài hạn, không giao tiếp, không ra ngoài. Trai ngọ được vị hộ pháp  đưa vào qua ô cửa nhỏ lớn hơn một bàn tay. Thời gian nhập thất tùy nguyện. 

Các vùng núi non như Tây Tạng, có vị nhập thất trọn đời đến khi chứng đắc mới rời khỏi biệt thất, nếu chưa chứng đắc họ sẽ bỏ xác tại chỗ. Ngày nay, tại Thành phố hoặc một số  địa phương, vấn đề nhập thất rất ít; Tịnh độ niệm Phật cũng nhập thất, thường một vài tuần, trường hợp nầy gọi là tĩnh tu chứ ít chuyên sâu đại định.

Một số chùa lớn, có phòng dành riêng cho các bậc trưởng thượng vãng lai, không được gọi là thất. Ngoại trừ một số chùa nơi vùng ngoại ô, thôn dã, đất chùa rộng, có một vài tịnh thất riêng biệt dành cho những ai phát tâm nhập thất độc cư, Cũng có một số cá nhân không lập chùa, chỉ tạo am cốc mà cũng gọi là tịnh thất.
tinhthat-3

Việc xây dựng am cốc, tịnh thất ngày nay không còn tùy thuộc vào luật định của giới bổn, hầu hết làm theo sáng kiến cá nhân, không mang dáng dấp của sự tu tập, thậm chí chạy theo kiến trúc thời đại, mẫu mã hình dạng là một biệt thự chứ không còn là biệt thất hay tịnh thất. Rất may, tình trạng nầy hiện nay rất ít. 


Trên Lâm Đồng, duy nhất sát cạnh chùa Lộc Uyển, một biệt thự xuất hiện, đáng ra ngôi Tam bảo là chính, biệt thự là phụ, đã không đúng quy cách tịnh thất của người tu, lại xén bớt một góc mái đao của chùa để cho biệt thự xuất hiện hoàn chỉnh hơn; chứng tỏ vì quyền lợi cá nhân quan trọng hơn bảo vệ Tam bảo, đây không phải phong cách của người tu.

Biệt thự trên, phạm phải luật xây dựng của thế gian, đương nhiên sẽ được luật pháp xử lý, theo luật đạo, ni Khánh Hạnh vi phạm toàn bộ những điều trích dẫn trên đây, trong đó, không thông qua trụ trì (Tăng thân), không thỉnh chư Tỳ kheo, lại làm quá mức, phạm tội Tăng già bà thi sa, một trong 13 giới Tăng tàn. Cũng theo Trong giới bản tân tu của Làng Mai ghi: * Giới  Tăng  thân  giải  cứu (Tăng-già-bà-thi-sa) 36 giới

23- Vị nữ khất sĩ nào ly khai tăng thân, đứng ra lập am cốc hoặc chùa một mình mà không có phép của  tăng  thân,  vị  ấy  phạm  giới  Tăng  thân  giải cứu.

Dĩ nhiên với bề thế của một biệt thư, nội thất làm sao khỏi trang trí xa hoa:

28- Vị nữ khất sĩ nào nằm giường nệm sang trọng, vị ấy phạm giới Buông bỏ và Phát lộ.

29- Vị nữ khất sĩ nào trang trí phòng ốc của mình sang trọng và đầy dẫy tiện nghi như nhàthế tục, vị ấy phạm giới Buông bỏ và Phát lộ.

Như vậy, giữa luật đời và đạo, ni Khánh Hạnh đã vi phạm trầm trọng, còn trầm trọng hơn về tâm tham, khi chùa chưa hoàn chỉnh mà đã hoàn chỉnh một biệt thự sang trọng giữa lòng khu xóm lao động, thể hiện bản ngã của một ni trẻ.Giáo hội và phân ban ni giới sẽ nghĩ gì đối với một nữ tu vượt trội như thế? Phải chăng, Phật giáo Việt Nam ngày nay quá tự do để có những tu sĩ trẻ vượt ngoài giới luật, vượt khỏi tầm kiểm soát của một tập thể?

Tịnh thất – biệt thất và Biệt thự có một khoản cách bao xa???

MINH MẪN
31/3/2015


tinhthat-1

                                                      Biệt thự của ni Khánh Hạnh TP. Đà Lạt (nằm bên cạnh là chùa Lộc Uyển)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2012(Xem: 14031)
Cái gọi là Đường Lưỡi Bò Nghe thật lạ, không vô Cũng không phải dưới đất chui lên Cũng không phải trên trời rớt xuống...
28/07/2012(Xem: 14518)
Biển Đông dậy sóng Đang đe dọa Việt Nam cùng Đông Nam Á Đường Lưỡi Bò là lưỡi hái xâm lăng...
19/07/2012(Xem: 5212)
Chính nghiệp lực là nguyên nhân của sự phân chia các loài, các loại người và loại vật. Không nên so sánh con người và con vật. Tuy nhiên một điều dễ nhận thấy, là rất nhiều con vật được sống sạch sẽ và tươm tất hơn một số con người, lại cũng có số người sống không bằng kiếp vật. Do vậy tình thương của Đức Phật như dòng nước tràn về miền sa mạc, những chỗ thấp có thể ví như con người nước thấm trước hết, sau đó [nước từ bi] tràn lên và thấm nhuần hết thảy những chỗ nhô cao hơn (được ví như cõi vật và các loài khác).
15/07/2012(Xem: 6705)
Trong tạp chí Văn Hóa Phật Giáo số đặc biệt 144 - 145, ra ngày 1-1-2012, có đăng bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn, một bài viết có nhiều điểm liên quan đến vấn đề phiên dịch kinh điển. Với vai trò của một nhà nghiên cứu, dịch thuật kinh điển Phật giáo trong nhiều năm, tác giả Đào Nguyên đã nhận thấy bài viết Cá nghe kinh của tác giả Trần Kiêm Đoàn có một số điểm cẩn phải trao đổi. Nhân đây, xin trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Đào Nguyên đến quý bạn đọc.
10/07/2012(Xem: 5134)
Từ lâu, khi viết về các vương quốc ở Ấn Độ thời Phật, các học giả đã chú ý đến các yếu tố “dân chủ”trong chế độ các nưóc ấy. Tôi đọc, nhưng thú thực không hào hứng mấy, cứ nghĩ chuyện ấy đã thuộc quá khứ xa xăm. Lý thuyết mà không có thực tế diễn ra trước mắt thì chỉ thỏa mãn được cái đầu, không làm rung động trái tim. Máu tôi chỉ thực sự nóng lên từ khi tôi theo dõi cuộc tranh đấu cho dân chủ của bà Aung San Suu Kyi và sau đó tìm đọc những tác phẩm của bà. Bà đã làm sống lại lý thuyết, bà thở với lời Phật, tranh đấu với hồn Phật.
02/07/2012(Xem: 6612)
Cách đây khoảng 20 năm, phong trào học thiền Nhân Điện xuất hiện trong cộng đồng người Việt ở Mỹ rồi một thời gian sau đó truyền về Việt Nam mà người khởi đầu là ông Lương Minh Đáng, một người Việt di cư đến Mỹ năm 1985. Những người theo học được ông hoặc các người phụ tá giảng dạy khai mở luân xa, rồi sau đó có thể tự chữa lành bệnh cho mình và cho tha nhân, kể cả các căn bệnh như ung thư và tim mạch và có khả năng chữa bệnh cho bệnh nhân ở xa qua việc truyền nhân điện bằng điện thoại.
14/05/2012(Xem: 10177)
Đa số tiểu bang của Hoa Kỳ, hôn nhân vẫn được định nghĩa theo hiến pháp qui định là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ. Tính cho đến tháng 5 năm 2012, chỉ có sáu tiểu bang (Connecticut, Iowa, Massachusetts, Vermont, New York và New Hampshire), và thủ đô Washington DC, đã chấp thuận hôn nhân đồng tính (giữa một người nam với một người nam hoặc giữa một người nữ với một người nữ).
12/04/2012(Xem: 4565)
Bài viết này không đưa ra một đề xuất nào, đối với bất kỳ cơ quan nào, mà chỉ thử dự đoán những gì sẽ xảy ra nếu hiện tượng Duy Tuệ vẫn tiếp tục diễn biến. Việc dự đoán như sẽ được trình bày dưới đây là không mấy khó khăn khi căn cứ trên những gì đã diễn ra, với giấy trắng mực đen, rành rành trên những trang của quyển sách có nhan đề ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiều lầm sau hàng ngàn năm” (sau đây gọi tắt là “Ta là ai?”).
22/03/2012(Xem: 4710)
Những bức hình giúp bạn nhận ra triết lý cuộc sống.
19/03/2012(Xem: 6056)
*Chánh Pháp thời kỳ: là sau Phật diệt độ, mới bắt đầu 500 năm Chánh pháp.( Theo luận Tỳ bà sa Q18. Vì độ cho Nữ giới xuất gia, nên Chánh Pháp bị giảm còn 500) Chánh pháp, có nghĩa là ‘Chứng Pháp’. Thời kỳ này có pháp, có người tu, và có người chứng được pháp đã tu. Có đủ Giáo Hạnh. Chánh pháp tồn tại 500 năm, hết 500 năm là qua thời tượng pháp. *Tượng Pháp thời kỳ: , là sau Chánh pháp, Tượng pháp tồn tại được 1000 năm. Tượng có nghĩa là ‘vẫn giống’ như Chánh pháp, có giáo, có hạnh,có pháp để tu, nhưng ít người chứng ngộ. Hết 1000 năm Tượng-pháp, là vào thời kỳ mạt pháp. *Mạt Pháp thời kỳ : Là thời khởi đầu chuyển thành ‘vi mạt’, Pháp mạt tồn tại Mười Ngàn Năm (10.000). Chỉ có Giáo mà không còn Hạnh! Tệ hơn, nhỏ bé hơn, thời kỳ của hao mòn, teo tóp, suy vi, chánh tà lẫn lộn. Ngày nay, Tuợng pháp hết đã lâu. Mạt Pháp cũng đã trôi qua 1051 năm rồi, nhưng còn kéo dài 8.949 năm nữa thì “Mạt Pháp” chấm dứt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]