Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Về giới cấm không được ca hát và xem nghe

27/08/201019:35(Xem: 4646)
Về giới cấm không được ca hát và xem nghe
Van_nghe_Cuoi_khoa (2)Tôi là Phật tử thường tham gia tu tập Bát quan trai. Tôi được biết trong giới luật nhà Phật có giới cấm không được ca hát và xem nghe. Tuy nhiên, tôi nhận thấy các chùa vẫn thường tổ chức văn nghệ, các Phật tử và chư Tăng cũng hay ca hát đạo ca trong các khóa tu và những dịp lễ. Vậy điều đó có mâu thuẫn không? Nếu không thì nên phát huy vì đạo ca làm cho người nghe nhớ mãi lời Phật dạy. (Hà Xuân Tiến & Nguyễn Chí Thanh, Huế; dthanh...@hcm.fpt.vn)

Đúng là giới luật nhà Phật có giới cấm không được ca hát và cố đi xem nghe. Tám giới Bát quan trai và mười giới Sa di, Sa di ni có giới điều quy định cụ thể về vấn đề này. Nhưng đồng thời trong nghi lễ Phật giáo và trong sinh hoạt tu học của Tăng Ni, Phật tử thì âm nhạc, ngâm vịnh, ca hát v.v… được vận dụng phổ cập xem như một phương tiện tu tập, hành đạo. Và hai việc này thoạt nhìn có vẻ như chống trái hoặc mâu thuẫn nhau nhưng thật ra đều hợp lý theo quy chuẩn Chánh pháp.

Trước hết, giới cấm không được ca hát và cố đi xem nghe nhằm trợ duyên cho người tu giữ vững chánh niệm, không bi lụy, đau thương bởi các lời ca tình tứ, ủy mỵ; không loạn động, phấn khích, cuồng nhiệt và bị cuốn theo các âm thanh kích động…, bởi điều đó chỉ làm tăng trưởng ái dục, phóng dật thân tâm, thậm chí rơi vào lãng quên, đánh mất mình. Hiện phần lớn những hoạt động thu hút sự chú ý của con người đều tập trung vào hai phương diện nghe, nhìn.

Âm thanh (nghe), sắc tướng (nhìn) là hai trần cảnh hấp dẫn, dễ tiếp xúc nhất và chi phối sự tập trung mạnh mẽ nhất. Những điều mắt thấy, tai nghe trong hiện tại luôn có tác dụng suy tưởng hoài niệm về quá khứ hay dự phóng tương tai hoặc lãng quên cả hiện tại. Tuy nó vẫn có những giá trị riêng trong cuộc sống nhưng đối với người thực tập chánh niệm là một sự tai hại, bị phân tán, không thể tập trung để hướng đến nhất tâm. Vì thế, Đức Phật đã thiết chế giới cấm không được ca hát và cố đi xem nghe những loại hình “văn nghệ đứt ruột”, kích động, tăng trưởng tham dục… nhằm thiết lập định tĩnh, an tịnh cho đời sống tu tập, thăng hoa tuệ giác và tâm linh.

Nhưng mặt khác, âm nhạc và ca hát nếu biết khai thác và ứng dụng theo chiều hướng thăng hoa lại trở thành phương tiện hỗ trợ cho tu tập và hành đạo rất tích cực. Thời Phật tại thế, sau các pháp thoại chư Thiên thường tấu nhạc cúng dường, tán thán Thế Tôn, ca ngợi Tam bảo. Trong các kinh điển Bắc truyền như kinh Pháp Hoa, Niết Bàn, luận Đại trí độ v.v… việc dùng âm nhạc để cúng dường rất phổ biến. Trong lễ nghi Phật giáo, âm nhạc là một phần quan trọng của Lục cúng (hương, hoa, đăng, đồ, quả, nhạc).

Tuy nhiên, âm nhạc Phật giáo luôn giàu có tố chất thiền vị, ca từ trang nghiêm, ý tứ hướng thiện có tác dụng chuyển hóa, thức tỉnh nhân tâm. Như âm nhạc trong thế giới Tịnh độ của Phật A Di Đà, mỗi lần nhạc trỗi lên, thúc đẩy và nhắc nhở chúng sanh “niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng” (kinh A Di Đà). Luận Đại trí độ xác định âm nhạc là một trong những phương tiện giáo hóa hữu hiệu: “Bồ tát muốn thanh tịnh cõi Phật, cần phải cầu được âm thanh hay. Chúng sanh nghe được âm thanh thiền vị ấy mà tâm được an lạc, vì tâm an lạc nên việc giáo hóa được dễ dàng”.

Khởi thủy của âm nhạc Phật giáo là hình thức kệ tụng mà Thế Tôn thường áp dụng khi thuyết pháp, rồi các Tỷ kheo cũng thường trùng tụng (đọc kinh) các pháp cú, Phật thoại ấy, gọi là thanh bái. Kế đến là hình thức Phạm bái, dùng khúc điệu thanh tịnh để đọc kinh, tán thán Phật, Bồ tát và ca ngợi công đức Tam bảo. Từ đó hình thành nền âm nhạc Phật giáo, thịnh hành trong nghi lễ và pháp hội.

Tùy theo văn hóa, truyền thống của mỗi vùng, miền, quốc gia mà có nền âm nhạc Phật giáo khác nhau. Những nhạc khúc thiền vị du dương, giai điệu trầm bổng trong thang âm điệu thức tán tụng có khả năng chuyển hóa lòng người. Việc hòa xướng Phạm âm (tụng tán kinh Phật), tạo nên Hải triều âm có thể khiến cho vọng niệm tiêu tan, tâm thần thư thái, tĩnh tại như vào thiền định sẽ giúp con người hướng thiện, xa rời điều ác, tịnh hóa thân tâm.

Và như thế, việc ngày nay ứng dụng tân nhạc, hát xướng đạo ca, ngâm vịnh kinh Phật… vào trong các sinh hoạt tu tập, nghi lễ, văn nghệ quần chúng của Tăng Ni, Phật tử là sự kế thừa, phát huy âm nhạc Phật giáo vốn có từ thời Thế Tôn. Hình thức “hát kinh” (phổ nhạc kinh Phật) hiện đang được chư Tăng và các nhạc sĩ, nghệ sĩ Phật tử tích cực cống hiến cùng với thiền ca, đạo ca sẽ góp phần làm phong phú thêm cho âm nhạc Phật giáo Việt Nam. Nền âm nhạc Phật giáo cổ truyền được ứng dụng trong nghi lễ từ bao đời nay đã góp phần không nhỏ trong việc hoằng pháp, lợi sanh. Hy vọng, âm nhạc Phật giáo hiện đại sẽ được phát huy và cùng song hành với lễ nhạc để dẫn dắt, khai thị người mê quay về với chánh đạo.

(Giác Ngộ)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/03/2012(Xem: 4515)
*Chánh Pháp thời kỳ: là sau Phật diệt độ, mới bắt đầu 500 năm Chánh pháp.( Theo luận Tỳ bà sa Q18. Vì độ cho Nữ giới xuất gia, nên Chánh Pháp bị giảm còn 500) Chánh pháp, có nghĩa là ‘Chứng Pháp’. Thời kỳ này có pháp, có người tu, và có người chứng được pháp đã tu. Có đủ Giáo Hạnh. Chánh pháp tồn tại 500 năm, hết 500 năm là qua thời tượng pháp. *Tượng Pháp thời kỳ: , là sau Chánh pháp, Tượng pháp tồn tại được 1000 năm. Tượng có nghĩa là ‘vẫn giống’ như Chánh pháp, có giáo, có hạnh,có pháp để tu, nhưng ít người chứng ngộ. Hết 1000 năm Tượng-pháp, là vào thời kỳ mạt pháp. *Mạt Pháp thời kỳ : Là thời khởi đầu chuyển thành ‘vi mạt’, Pháp mạt tồn tại Mười Ngàn Năm (10.000). Chỉ có Giáo mà không còn Hạnh! Tệ hơn, nhỏ bé hơn, thời kỳ của hao mòn, teo tóp, suy vi, chánh tà lẫn lộn. Ngày nay, Tuợng pháp hết đã lâu. Mạt Pháp cũng đã trôi qua 1051 năm rồi, nhưng còn kéo dài 8.949 năm nữa thì “Mạt Pháp” chấm dứt.
23/02/2012(Xem: 4052)
Sau 2 bài báo về quyển sách ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm” của tác giả Duy Tuệ, số lượng những ý kiến trên mạng bênh vực, đề cao tác giả quyển sách cho thấy tổ chức “Đại gia đình Minh Triết” do tác giả Duy Tuệ, người tự phong “đạo sư”, thành lập và chỉ đạo, điều hành đã tập trung khá đông đảo người tham gia tổ chức, đặc biệt là ở Việt Nam.
09/01/2012(Xem: 3952)
Bài viết này tiếp tục trích dẫn và bàn luận những vấn đề từ nội dung quyển sách ““Ta là ai?” Thông tỏ sự hiểu lầm sau hàng ngàn năm” của tác giả Duy Tuệ*. Loạt bài viết này của chúng tôi, trước hết, xin được hiểu như một loạt bài điểm sách, bình luận nội dung sách, với tựa đề quyển sách liên hệ đã nêu ở trên, được tiếp thị đến tôi trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, như đã miêu tả ở bài trước.
26/12/2011(Xem: 2909)
HỎI: Cách đây gần 2 năm vợ chồng tôi ăn chay trường. Nguyên nhân là tự dưng tôi không thể ăn được thịt cá, thế là tôi ăn chay. Còn chồng tôi trước đó có tìm đọc một số kinh sách, nghe giảng pháp, bắt đầu có hướng tu tập tại gia theo pháp môn Niệm Phật, khi thấy tôi ăn chay trường nên cùng ăn chay luôn. Tình cờ tôi gặp một người cũng ăn chay trường và tu tập nhiều năm. Khi thấy chúng tôi ăn chay và niệm Phật thì chú ấy rất vui mừng và đưa cho chúng tôi nhiều sách, đĩa hướng dẫn tu tập...
04/11/2011(Xem: 2969)
Mấy lúc gần đây trong nước đã nổ ra ba vụ xúc phạm nặng nề tới hình ảnh của Đức Phật và Phật Giáo nói chung, khiến gây phẫn nộ nơi hàng Phật tử. Đó là việc lợi dụng lòng Từ Bi, Hỉ Xả của Phật Giáo và trào lưu đang hướng về Phật Giáo trên toàn thế giới, nhất là Thiền, một vài người làm ăn đã dùng tên Phật và hình ảnh Phật (Buddha) cho cơ sở thương mại không đứng đắn của họ: Đó là Buddha Bar & Grillở Sài Gòn và tệ hại hơn nữa Buddha SpavàFunky Buddhaở Hà Nội.
25/10/2011(Xem: 6746)
Thái độ của Phật giáo liên quan đến sự hòa điệu phi thường này như thế nào? Phật giáo có chấp nhận ý niệm có một Đấng Sáng Tạo toàn tri hay là một nguyên lý sáng tạo có khả năng điều chỉnh sự tiến triển của vũ trụ một cách tuyệt vời? Hay Phật giáo cho rằng sự hòa điệu chính xác và tuyệt vời của vũ trụ chẳng qua chỉ là một tình cờ may mắn? Vấn đề có hay không một Đấng Sáng Tạo?
17/10/2011(Xem: 4684)
Phim tài liệu này đa số là hình ảnh xứ Cam bốt, không phải Sài gòn 1963: 54 giây đồng hồ đầu là cảnh Sài Gòn; Sau đó là toàn cảnh xứ Cam bốt và cảnh quân đội Cam bốt bắt bớ đàn áp Sư và phật tử, chỉ có vài giây ngắn là xen vào ảnh bà cố vấn Ngô đình Nhu .
08/09/2011(Xem: 4840)
Năm 1962, cơ duyên đến, Hoàng tôi "tình cờ" được dự lễ Phật Đản tại chùa Từ Đàm. Đó là một hoát nhiên đại ngộ chính trị. Không khí trang nghiêm, kỹ luật, thuần thành của biển người trên sân Chùa Từ Đàm hôm đó khiến Hoàng tôi nghĩ rằng, tổng quát ra, Phật giáo có thể là một đoàn thể áp lực có khả năng góp phần giải tỏa những oan khiên khúc mắc lịch sử xứ sở đang kẹt vào. Như thế nào? Thực sự Hoàng tôi chưa có một ý niệm rõ rệt nào cả. Anh chị em chúng tôi thường le lưỡi đùa đó là thời "mã thượng ham vui".
08/08/2011(Xem: 4244)
“Dương Văn Minh – Tổng thống cuối cùng của chính quyền Sài Gòn” là một quyển ký sự - tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Trần Thiết, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, cựu phóng viên Báo Quân đội Nhân dân, là người đã phỏng vấn Tổng thống Dương Văn Minh vào ngày 30/4/1975.
27/07/2011(Xem: 4044)
Cách đây không lâu, chúng tôi đã có bài giới thiệu cách sử dụng tờ gấp vào việc quảng bá lễ Phật đản. Tuy nhiên, chưa thấy đơn vị Phật giáo nào áp dụng trong thực tế, trong khi các hoạt động truyền thông đã có truyền thống lâu đời của lễ Phật đản, như xe hoa, cũng như những hoạt động truyền thông cổ động mới cho lễ Phật đản, như thuyền hoa, đều bị cắt hủy, loại bỏ tại 1
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567