Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Alexandre de Rhodes, Công và Tội

20/05/201021:25(Xem: 4887)
Alexandre de Rhodes, Công và Tội

Alexandre de Rhodes, Công và Tội

ALEXANDRE DE RHODES
Công và Tội
nguồn: báo Hồn Việt tại TP HCM, Số 17, tháng 11.2008, mục Trao Đổi - Ý Kiến
Bùi Kha

Sách hiếm - cho đến khi nó được phổ biến ở tất cả các nơi mà "thánh kinh" có mặt!




Vấn đề Alexandre de Rhodes chưa thể quên đối với người dân Việt nhất là với giới nghiên cứu vì vài lý do:

a- Sau năm 1993 “bia 1941” của A. de Rhodes, được dựng lại tại khuôn viên thư viện Hà Nội và tên đường A. de Rhodes cũng được tái lập tại TP. Hồ Chí Minh/

b- Quốc gia Việt Nam ngày càng giao lưu rộng rãi trên chính trường và thương trường quốc tế thì tất cả những gì còn khuyết điểm cần được điều chỉnh để tránh những nhận xét thiếu thiện cảm đối với dân tộc ta/

c-Các tài liệu về sử đã được giải mật rất nhiều tạo điều kiện để những nhà nghiên cứu rà xét lại những tác phẩm của mình, nhất là những tác phẩm về sử dưới thời thực dân đô hộ để, một lần nữa, nhận định lại cho đúng công và tội của một số nhân vật có liên hệ đến đất nước và dân tộc ta qua các thời đại, tiêu biểu là các ông Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), Nguyễn Trường Tộ và Trương Vĩnh Ký…Bài này tôi chỉ đề cập đến Linh mục Đắc Lộ và chữ Quốc ngữ mà có nhiều người đã nhầm lẫn.

Vinh danh Linh mục Đắc Lộ từ sự nhầm lẫn trong dịch thuật…

Thật vậy, qua hai lần hội thảo năm 1992 và 1993, giới sử học và các nhà nghiên cứu đã kiến nghị lên chính phủ và Bộ Văn Hóa để phục hồi lại địa vị của Giáo sĩ Đắc Lộ” vì hai lý do chính dưới đây:

Một: Nghĩ rằng ông là người sáng nghĩ ra chữ Quốc ngữ.

Nhưng trong Lời nói đầu của cuốn “Từ Điển Việt - Bồ - La”, chính Linh mục này, chứ không phải người nào khác, đã cho biết ông không hề có sáng kiến ấy. Ông viết:

“…Tuy nhiên trong công việc nầy (học chữ Quốc ngữ, B.K.) ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh, thì ngay từ đầu tôi đã học với cha Francisco de Pina người Bồ Đào, thuộc hội dòng Giê-su rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng nầy, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspa de Amaral và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu từ tiếng An Nam, ông sau bằng tiếng Bồ - đào, nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La - tinh theo lệnh Hồng y rất đáng tôn,…”

(“Từ Điển AN NAM – LUSITAN - LATIN”, Thường gọi là “Từ điển Việt - Bồ - La”, Nxb Khoa Học Xã Hội, TP. HCM, tháng 3, 1991, phần Việt ngữ, tr. 3).

Cuốn từ điển này xuất bản tại Việt Nam tháng 3/ 1991. Nhà sử học Chương Thâu viết bài “Từ một câu chữ của Alexandre de Rhodes đến các cách dẫn dụng khác nhau” ngày 14/12/1995, nghĩa là gần 5 năm sau, nhưng không biết tại sao ông lại không đọc đoạn văn quan trọng này của LM Đắc Lộ mà tôi vừa dẫn để sự đánh giá nhầm lẫn về Đắc Lộ và nhiều nhà nghiên cứu khác…cũng thế, nên mới có những nhận định sai về LM Đắc Lộ và chữ Quốc ngữ trong hai lần Hội thảo mà chúng ta sẽ thấy dưới đây.

Hai, tái vinh danh LM Đắc Lộ là một sai lầm lớn, vì ông đã vận động Pháp xâm chiếm và đô hộ nước ta qua đoạn văn do chính ông viết trong cuốn “Hành trình và truyền giáo” như sau:

“J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume de monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ, et particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des Évêques, qui fussent nos Pères et nos Maitres en ces Églises. Je suis soirti de Rome à ce dessein le 11e Septembre de l’année 1652 après avois baisé les pieds du Pape”.

Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ (plusieurs soldats) đi chinh phục toàn cõi Đông phương (la conquête de tout l’Orient), đưa về qui phục Chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó, tôi rời bỏ Rôma ngày 11 tháng 9 năm 1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo hoàng” (Bản dịch của Hồng Nhuệ, gần cuối tr. 263, sách đã dẫn).

Đoạn văn trên có hai cụm từ rất đáng chú ý: plusieurs soldats (lại được (!) hiểu là “lính thừa sai”! và la conquête de tout l’Orient (được dịch tùy tiện là “nước cha trị đến”!).

Để hiểu rõ thêm tại sao có sự tái vinh danh sai lầm trên tầm cỡ quốc gia như thế, chúng ta nên đọc một đoạn trong bài viết của Nhà sử học Chương Thâu, như đã nêu trên, mô tả một phần cuộc hội thảo:

“…Và đến lượt, ông Nguyễn Đình Đầu đã dịch lại câu trên của A. de Rhodes đồng thời “chú thích một số từ dùng trong câu của A. de Rhodes, cũng là nhằm “đối thoại” và “biện minh” với giới nghiên cứu khoa học xã hội – nhân văn, như sau:

“Tôi tin rằng nước Pháp là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn phương Đông và đặt dưới quyền trị vì của Đức Giêsu Kitô, và đặc biệt tại Pháp, tôi sẽ tìm cách có được Giám mục, các ngài sẽ là cha và là thầy chúng tôi tại các Giáo Hội này” (tức là Đàng Ngoài và Đàng Trong).

Ông Nguyễn Đình Đầu biện giải thêm: “Nếu đọc nguyên đoạn trích trên đây, ta mới hiểu chữ chiến sĩ có nghĩa bóng là thừa sai (đối với giám mục là cha và thầy họ). Còn “chinh phục toàn phương Đông” là để cho “nước Cha trị đến”, chứ không phải để cho Pháp đến thống trị. “Chinh phục” hiểu theo nghĩa tôn giáo, chứ không phải chính trị. Vì ngộ nhận trên, người ta mới gán cho chữ Quốc ngữ “còn có ý nghĩa chính trị” vậy!”

…Chính trong cuộc Hội Thảo đó, Hội Sử học đã đưa ra nhiều kiến nghị với các cấp có thẩm quyền (Thủ Tướng Chính Phủ, Bộ Văn Hóa...) nhằm “khôi phục” vị trí xứng đáng cho linh mục A. de Rhodes, người đã góp phần quan trọng trong việc chế tác ra chữ Quốc ngữ cũng như một số hoạt động văn hóa (trứ tác các công trình sử học giá trị).

Cũng do vậy mà hiện nay, đã có quyết định khôi phục lại tên đường A. de Rhodes ở TP. Hồ Chí Minh; dựng lại “bia 1941” tại khuôn viên Thư Viện Quốc Gia ở Hà Nội...”. {Chương Thâu, “Nguyệt San Hiệp Nhất”, số 43, Giáo phận Orange County, California, USA, tháng 7, 1996, bài viết có tựa đề: “Từ một câu chữ của Alexandre de Rhodes đến các cách dẫn dụng khác nhau” }.

Hiểu chính xác từ ngữ để hiểu rõ Linh mục Đắc Lộ là người thế nào?

Chúng ta có cảm tưởng là hầu hết các nhà nghiên cứu chưa đọc hết các tác phẩm của Đắc Lộ, đặc biệt là cuốn “Hành Trình và Truyền Giáo”, Lời nói đầu cuốn “Từ điển Việt-Bồ-La” và cuốn “Phép Giảng Tám Ngày”. Dưới đây tôi sẽ đưa ra năm luận điểm để cho thấy quý vị có tên tuổi vừa nêu trên đã diễn dịch sai hai cụm từ quan trọng vừa nói:

1. Về phương diện từ ngữ

- Cụm từ Plusieurs soldats có nghĩa là nhiều binh lính. Và chữ missionares mới có nghĩa là lính thừa sai tức là các nhà truyền giáo Gia tô.

- Cụm từ La conquête de tout l’Orient  Chinh phục cõi Phương đông. Còn “Thy heaven come” (trong kinh Lạy Cha) mới có nghĩa là Nước cha trị đến.

2. Trích dẫn chưa trọn câu đủ ý:

Để có thể hiễu rõ thêm ngữ nghĩa của hai cụm từ vừa nêu chúng ta nên đọc tiếp đoạn văn của Đắc Lộ, cũng ở trong cuốn “Hành trình và truyền giáo”, cách đoạn trích dẫn trên chỉ chưa đầy ba dòng mà thôi:

“Tôi đi qua Marxây và Lyon rồi tới Paris; theo tôi thì Paris là bản mẫu tất cả những gì đẹp nhất tôi đã thấy ở khắp trái đất này.” (cuối tr. 263).

“Trên đường từ Lyon tới Paris tôi nghiệm thấy có sự quan phòng rất đặc biệt của Chúa, tôi vẫn coi như kim chỉ nam và mẫu mực. Để ra mắt ở Pháp tôi cần có thiên thần hộ vực để đưa tôi lọt vào triều đình vua cao cả nhất hoàn cầu. Thế là tôi gặp ở Roanne đức Henri de Maupa, giám mục thành Puy, tu viện trưởng Saint Denis, đệ nhất tuyên úy của Hoàng Hậu. Ngài có nhã ý cùng đi với tôi trong cuộc hành trình nhỏ bé nầy…” (đầu tr. 264), {các chữ in đậm là của tác giả muốn lưu ý}.

Như thế, chính Linh Mục A. de Rhodes (Đắc Lộ) đã vào trong triều đình, gặp bà hoàng hậu vua Luis thứ IV, xin giúp nhiều lính chiến (plusieurs soldats) để chinh phục toàn cõi Đông Phương (la conquête de tout l’Orient), trong đó có nước ta.

Tuy sự vận động đó chưa thành vào thời điểm của ông, nhưng nó đã mở đường cho Pháp xâm lược nước ta 206 năm sau. Lính Pháp đổ bộ lên Đà Nẵng ngày 1/9/1858.

Thêm một lý do khác để hiểu tại sao hai chữ Plusieurs soldats có nghĩa là lính chiến có khí giới vì LM Đắc Lộ vào xin triều đình (chứ không phải vào xin Tòa Giám mục hay xin giáo hội), mà trong triều thì tuyệt nhiên không có “lính thừa sai” tức là các giáo sĩ.

3. Về bối cảnh Tôn giáo và Chính trị:

Từ năm 1493, Giáo Hoàng Alexander VI đã giao cho Bồ Đào Nha có quyền “sinh sát” tại các nước Phương đông. Vì thế, LM Đắc Lộ viết rất đúng với hiện thực tôn giáo-chính trị lúc bấy giờ rằng: “Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ (plusieurs soldats) để đi chinh phục toàn thể Phương Đông (la conquê te de tout l’Orient)…”

Tại sao LM Đắc Lộ không xin Giáo hội Pháp mà xin nước Pháp? Vì về mặt giáo quyền, Giáo hội Pháp bị ràng buộc bởi giáo lệnh của Giáo Hoàng Alexander VI từ năm 1493, như đã nêu trên, nên không thể xin Giáo hội Pháp lính thừa sai (missionnaires) được. Vì vậy, khi Cha Đắc Lộ tiếp cận với nước Pháp (hay bất kỳ nước nào ngoại trừ Bồ Đào Nha) là để xin lính chiến, hoặc để xin gì cũng được ngoại trừ những thứ liên hệ đến Giáo hội như giáo sĩ, giáo sản…Cha Đắc Lộ dùng chữ soldats (lính chiến) rất chính xác. Vì nước Pháp, hay trong chính phủ Pháp làm gì có các thừa sai mà chính phủ cung cấp cho Cha Đắc Lộ?

4. Về mặt tâm lý:

LM Đắc Lộ bị Chúa Trịnh đuổi, Chúa Nguyễn đuổi, Trung Quốc đuổi, há ông không xin binh lính (soldats) để phục thù sao? Trong cuốn “Phép giảng tám ngày”, tr. 83, LM Đắc Lộ cũng đã biểu hiện tâm chất bất bình của mình:

“Như thể có chém cây nào đục cho ngã, các cành ấy tự nhiên cũng ngã với. Vậy thì ta làm cho Thích Ca, là thằng hay dối người ta, ngã xuống, thì mọi truyện dối trong đạo bụt bởi Thích Ca mà ra, có ngã với thì đã tỏ.” {Tâm chất và văn phong thiếu văn hóa (trong cuốn “Phép giảng tám ngày”) đến thế mà cũng được ông Chương Thâu ca tụng là một trứ tác văn hoá giá trị trong bài viết nêu trên}.

5. Sứ mạng của một giáo sĩ Dòng Tên (Jesuite):

Muốn biết thêm giáo sĩ A. de Rhodes có ý đồ chính trị hay không, chúng ta cũng nên tìm hiểu ông được đào tạo và trưởng thành như thế nào qua:

Lời thề của các tu sĩ Dòng Têntrước Giáo Hoàng

…Con xin hứa thêm rằng, lúc có cơ hội, con sẽ tạo ra chiến tranh và tham gia bí mật hay công khai chống lại tất cả những kẻ khác tôn giáo, Tin Lành và Tự Do như con đã được chỉ thị để tàn sát và triệt hạ tận gốc những tên này trên khắp mọi miền của quả đất. Con sẽ không bỏ sót một tên nào; bất kể tuổi tác, giới tính hay hoàn cảnh, con sẽ treo cổ, đốt sống, bỏ vào nước sôi, lột da, siết cổ hay chôn sống những kẻ khác tôn giáo, mổ bụng, moi bào thai trong tử cung vợ chúng và đập đầu những hài nhi vào tường để tiêu diệt vĩnh viễn một chủng tộc đáng ghét…

Sử liệu cho thấy A. de Rhodes gia nhập Dòng Tên lúc 19 tuổi (1612), ông đến Macao năm 1623, Nam kỳ Việt Nam năm 1645. Thời gian 22 năm ở các nước Á Châu, đi về Âu Châu. Trong suốt thời gian này ông không bị dứt phép Thông Công, không bị khai trừ khỏi Giáo hội, nghĩa là LM Đắc Lộ vẫn theo Dòng Tên. Với lời thề của Dòng Tên như chúng ta vừa thấy, LM Đắc Lộ ít nhiều không thể là một người hiền lương bình thường.

Với sứ mạng của một giáo sĩ Dòng Tên mà A. de Rhodes đã thề, thì:

- Cụm từ Plusieurs soldats, thêm một lý do nữa, phải được dịch là nhiều binh lính.

- Và cụm từ La conquête de tout l’Orient  Chinh phục cõi phương Đông.

Công, tội rõ ràng …

Tóm lại, qua các trích dẫn và luận chứng nêu trên, ta thấy, Linh mục Đắc Lộ không hề có công sáng tạo chữ Quốc ngữ như nhiều người gán ép sai lầm qua nhiều thế hệ, còn truyền đạo chỉ là một trong những hình thức chính để phục vụ cho quyền lợi kinh tế và chính trị, rồi từ đó sẽ đưa đến chiến tranh chiếm thuộc địa.

Khi phục hồi lại “chân giá trị” của Đắc Lộ như là một nhà văn hoá lớn, đặt tên đường Đắc Lộ và dựng lại bia 1941, nhưng lại thiếu nghiên cứu tường tận, và chỉ dẫn ra một đoạn văn không trọn câu đủ ý, chúng ta sẽ khó tránh khỏi sự phê phán của các sử gia cả trong lẫn ngoài nước cho rằng nhiều nhà nghiên cứu và Viện Sử học Việt Nam thiếu sử liệu và không nghiêm túc, cũng như sự chế giễu của những người nước ngoài có hiểu biết về lịch sử Việt Nam.

Là một người nghiên cứu sử, tôi xin mạn phép đề nghị với quý vị giáo sư sử học, nên có một dự án nghiên cứu đặc biệt về LM Đắc Lộ để giá trị của ông được đánh giá đúng đắn, vượt ra ngoài lối nhìn có tính tôn giáo hay có tính “chiến lược nhất thời” (nếu có), hay sự chưa chính xác vì thiếu sử liệu.

Ngoài ra, dẫu ai là người có sáng kiến nghĩ ra cách phiên âm tiếng Việt bằng mẫu tự La-tinh, mà chúng ta thường gọi là chữ Quốc ngữ, thì cũng cần cân nhắc cái mục đích của nó. Mục đích đầu tiên là để truyền đạo. Kế tiếp, dẫu chưa thể thực hiện toàn vẹn và nhanh chóng dưới thời LM Đắc Lộ, nhưng chiến lược chính trị và văn hóa của nó thì đã có cơ sở lâu dài như ý kiến của Giám mục Puginier dưới đây.

“Từ lâu, tôi chủ trương dạy và dùng chữ Châu Âu để viết tiếng An Nam, nhưng khốn thay, tôi không được ủng hộ trong việc thực hiện kế hoạch mà đã sáu lần tôi đề nghị. Nhưng tôi sung sướng thấy từ hai năm nay, chúng ta hoạt động tích cực trong mục đích này: Ngoài trường dạy tiếng Pháp của phái bộ là trường đầu tiên được thiết lập ngày 8/12/1884, chính phủ còn lập nhiều trường khác từ ngày 5/4/1885.

Cần phải dạy càng sớm càng tốt cho người An Nam viết và đọc được tiếng họ bằng chữ Âu Châu, việc này dễ hơn và tiện lợi hơn dùng chữ Nho. Trong vài năm sau, cần phải bắt buộc mọi giấy tờ chính thức không được viết bằng chữ Nho như trước nữa, phải viết bằng tiếng trong nước, mỗi viên chức ít nhất phải được dạy đọc và viết tiếng An Nam bằng chữ Châu Âu. Trong lúc đó việc dạy chữ Pháp sẽ tiến triển nhiều hơn và chúng ta chuẩn bị một thế hệ để cung cấp các viên chức có học tiếng nước chúng ta.Như thế có lẽ trong vòng 20 hay 25 năm chúng ta có thể bắt buộc mọi giấy tờ đều viết bằng tiếng Pháp, do đó chữ Nho sẽ dần dà bị bỏ rơi mà chúng ta chẳng cần phải cấm đoán gì.

Khi chúng ta đạt được thành quả lớn lao đó, chúng ta xóa đi của nước Trung Hoa một phần lớn ảnh hưởng tại An Nam và phe trí thức An Nam là phe rất căm ghét sự thiết lập thế lực Pháp, cũng sẽ bị tiêu diệt dần dần.

Vấn đề này có tầm quan trọng rất lớn, sau khi đạo Thiên Chúa được thiết lập, tôi xem việc tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần dần ban đầu bằng tiếng An Nam, rồi bằng tiếng Pháp như là phương tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất hiệu nghiệm để lập nên tại Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông.”(Có thể tìm thấy trong luận án Tiến sĩ của Cao Huy Thuần “Chủ nghĩa thực dân Pháp và Thiên chúa giáo ở Việt Nam”).

Tôi xin kết thúc bài viết với ý kiến cuối cùng sau đây:

Dân tộc ta có truyền thống trọng tình nặng nghĩa; ghi công và biết ơn anh hùng liệt nữ đã đóng góp cho tổ quốc. Và chúng ta thể hiện lòng biết ơn đó qua các biểu hiện vinh danh những vị đó bằng các ngày lễ, đặt tên trường, công viên, đường phố... Nhưng chúng ta cũng không quên những kẻ có tội với đất nước mà tên tuổi và những tội trạng cũng được nghiên cứu để ghi vào sử sách cho người đời này và đời sau lấy đó làm bài học. Tiêu chuẩn lớn nhất để quy định công tội là họ đã làm gì cho dân tộc và tổ quốc Việt Nam. Về trường hợp của Linh mục Đắc Lộ, ông có cái công, ít nhiều, triển khai thêm chữ Quốc ngữ do một số giáo sĩ trước ông sáng nghĩ để dạy giáo lý Kitô cho con chiên. Nhưng ông có cái tội là cung cấp thông tin cho và vận động với nước Pháp để xâm chiếm và đô hộ nước ta.

Còn sau đó, chữ Quốc ngữ được dân ta vận dụng tốt hay xấu, mưu mô xâm lược của Pháp thành hay bại là công và tội của người đời sau.

Vậy từ cái công và cái tội đó tôi xin đề nghị như sau: Dân tộc ta nên ghi công của Linh mục A. de Rhodes đã có phần cải tiến chữ Quốc ngữ (chứ không phải người sáng nghĩ ra chữ Quốc ngữ) và nên kết tội ông là kẻ gián điệp sớm nhất trong lịch sử xâm lược của Tây Phương vào nước ta.

Tên và tiểu sử của Linh mục cần được ghi lại trong chương trình giáo dục môn sử với đầy đủ công tội. Có như vậy, lịch sử mới rõ ràng, và việc ứng xử của chúng ta mới minh bạch. Bởi vì, nếu chúng ta không sòng phẳng với quá khứ thì tương lai sẽ không sòng phẳng với chúng ta và các thế hệ hậu sinh cũng sẽ nhìn chúng ta qua đôi mắt thiếu nể trọng. blank

___________________

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/07/2018(Xem: 5146)
Người con Phật nghĩ gì về án tử hình? Đứng về phương diện cá nhân, rất minh bạch rằng không Phật tử nào ủng hộ án tử hình. Đứng về phương diện quốc gia, thực tế là rất nhiều quốc gia -- nơi Phật giáo gần như quốc giáo, như Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka… -- vẫn duy trì và thực hiện án tử hình. Tại Thái Lan, án tử hình dùng để trừng phạt cho 35 tội hình sự, trong đó có tội sát nhân và buôn ma túy. Miến Điện cũng thế. Điểm hay là ở chỗ, hai quốc gia này tuyên án tử hình, nhưng rất ít khi thi hành án tử. Các quốc gia có đông dân số Phật tử -- như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan… -- vẫn áp dụng án tử hình, và thường xuyên thi hành án tử.
20/07/2018(Xem: 11169)
Vào tháng 10, mùa đông, nhằm tiết đại hàn, giá lạnh, vua Lý Thánh Tông (1023 – 1072) nói với các quan hầu cận rằng: "Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn còn rét thế này, nghĩ đến người tù bị giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu, và cấp cơm ăn ngày hai bữa.” (1)
19/07/2018(Xem: 5443)
“Thử Đề Nghị Một Phương Thức Kết Hợp Những Người Con Phật Trong Nhiều Chi Nhánh Phật Giáo Việt Nam Cùng Sinh Hoạt Với Nhau” là một đề tài tế nhị, khó nói, và nói ra cũng rất khó tìm được sự đồng thuận của hầu hết chư Tôn Đức và đồng bào Phật tử hiện đang sinh hoạt trong nhiều chi nhánh Phật Giáo Việt Nam. Đề tài này hàm ngụ hai lãnh vực nội dung và hình thức sinh hoạt, và bao gồm ba hình thái tổ chức là các Giáo Hội Phật Giáo, các Hội Cư Sĩ, và các hệ thống Gia Đình Phật Tử.
04/07/2018(Xem: 5835)
Kể từ năm 1975, sau khi Cộng sản Bắc Việt toàn chiếm Miền Nam Việt Nam, hàng triệu người đã vượt biển, vượt biên, rời khỏi đất nước để mưu tìm tự do; và hàng chục triệu người khác đã phải ở lại để gánh chịu bao bất công, tủi nhục, nghèo đói, mất tất cả các quyền căn bản của con người trên chính quê hương của mình.
29/06/2018(Xem: 3937)
Tường thuật cuộc biểu tình chống dự luật về ba đặc khu và an ninh mạng của chính quyền CSVN do Giáo Hội PGVNTN Âu Châu tổ chức tại công trường Trocadéro, Paris, Pháp Quốc ngày 29.6.2018. Sau bản lên tiếng của 4 GHPGVNTN Liên Châu được ký vào ngày 8 tháng 6 năm 2018 là Thông Tư của GHPGVNTN Âu Châu ngày 10 tháng 6 năm 2018 kêu gọi chư Tăng Ni và Phật Tử hãy hành động thiết thực và nguyện cầu cho quê hương Việt Nam. Kế đến là bản kháng nghị gửi nước CHXHCNVN ký vào ngày 19.6.2018 và đặc biệt là Thông Báo Khẩn do nhị vị Chủ Tịch Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt và Hòa Thượng Thích Như Điển ký tên, gửi đến chư Tôn Đức và quý đồng hương PTVN tại Âu Châu vào ngày 20 tháng 6 năm 2018 kêu gọi tổ chức một cuộc biểu tình tại công trường Tự Do Trocadéro trước tháp Effel tại Paris vào lúc 14 đến 16 giờ chiều ngày 29 tháng 6 năm 2018 vừa qua.
26/06/2018(Xem: 4223)
Chùa Vắng Trong Đặc Khu Nguyên Giác Chùa vắng, là nói chùa không có tăng sĩ. Đặc khu là nói về Xishuangbanna Dai Autonomous Prefecture ở vùng cực nam tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Có thể phiên âm Xishuangbanna là Tây Song Bản Nạp, và Dai là chỉ về sắc tộc Thái. Prefecture là đơn vị hành chánh được cai trị theo quy chế đặc biệt, nằm dưới cấp tỉnh, nhưng bao gồm nhiều huyện. Chữ Autonomous có nghĩa là tự trị, nhưng không có nghĩa tự trị theo nghĩa quốc tế, mà chỉ có nghĩa là cán bộ lãnh đạo đặc khu tự trị có toàn quyền hành động rồi báo cáo về thiên triều Bắc Kinh sau - kiểu tiền trảm hậu tấu. Bởi vì, đặc khu luôn luôn là nơi phức tạp.
25/06/2018(Xem: 4820)
Thế giới nói chung và người Việt nói riêng theo dõi tình hình thời sự nóng bỏng nhất của Việt Nam xung quanh khóa họp XIV của Quốc Hội năm 2018 về hai dự luật Ba Đặc Khu và An Ninh Mạng: Kết quả là dự luật Ba Đặc Khu sẽ được tiếp tục thảo luận và dời lại ngày biểu quyết tới cuối năm. Luật An Ninh Mạng (Cybersecurity) của Việt Nam đã được Quốc Hội biểu quyết thông qua sáng 12-6-2018 với 423 trong tổng số 466 đại biểu có mặt tán thành (tỷ lệ 86,86%); 15 đại biểu không tán thành; 28 đại biểu không biểu quyết.
21/06/2018(Xem: 6192)
Chương trình Người Bí Ẩn (Odd one in) của đài truyền hình ITVAnh quốc, sản xuất bởi Đông Tây Promotion Official, đuợc phát sóng định kỳ hàng tuần trên kênh HTV 7 của đài truyền hình Tp. Hồ Chí Minh vào lúa 20 giờ 30 mỗi tối chủ nhật hàng tuần, và các kênh VTV Cab1, Giải Trí TV, Kênh 1HD đài phát thanh truyền hình Hà Nội.
21/06/2018(Xem: 4918)
Thượng võ, có nhiều nghĩa. Trong danh từ, nghĩa đơn giản là đề cao, ưa thích võ thuật. Nhưng tĩnh từ, có nghĩa là tâm hồn cao thượng của người đã sống được võ đạo, nghĩa là tử tế, công bằng, không gian lận. Đối với Phật tử, tinh thần thượng võ đã nằm sẵn trong năm giới, vì nếu không thượng võ, có nghĩa là đi trộm hào quang của đấu thủ khác, của đội tuyển khác, của quốc gia khác. Tuy nhiên, nếu giữ được thượng võ mà thiếu vắng từ bi, cũng không đúng Chánh pháp. Bởi vì từ bi do vì muôn dân mà làm, chứ không vì kiêu mạn.
09/06/2018(Xem: 6084)
Có tình cờ không, khi tin tức trên mạng gần đây, cả trong và ngoài nước đều đưa tin và hình ảnh những địa danh như Khánh Hòa, Nha Trang, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Bãi Cháy, Hạ Long …. đều đang biến dạng thành đất Tầu!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567