Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa thượng U Pannya Jota Mathathera vị Danh tăng Phật giáo Bangladesh tân Viên tịch

18/04/202011:11(Xem: 4116)
Hòa thượng U Pannya Jota Mathathera vị Danh tăng Phật giáo Bangladesh tân Viên tịch

HT.  U Pannya Jota Mahathera 1
Hòa thượng U Pannya Jota Mathathera vị Danh tăng Phật giáo Bangladesh tân Viên tịch

 

Hòa thượng U Pannya Jota Mahathera, một trong những nhà lãnh đạo Phật giáo hàng đầu ở Bangladesh, người sáng lập ngôi già lam Dhātu Jadi đã trút hơi thở cuối cùng và an nhiên viên tịch tại một bệnh viện tư nhân ở thành phố Hayogram vào sáng hôm thứ Sáu, ngày 10/4/2020. Hưởng thọ 65 tuổi.

 

Hòa thượng Tiến sĩ Bdhipala, Tổng Thư ký Hiệp hội Phật giáo Bengal, Kolkata, Ấn Độ, Viện chủ Bảo tháp Đại Giác Mahabodhi Temple, Ấn Độ đã gửi Điện thư chia buồn được chia sẻ trên phương tiện truyền thông xã hội Facebook, trong Điện thư có đoạn:

 

“Nguyên là một Thẩm phán danh tiếng đi tu, Hòa thượng U Pannya Jota Mahathera nổi tiếng là một diễn giả và rất linh hoạt, nơi mọi người trên khắp Bangladesh, Myanmar và Ấn Độ đã lắng nghe những pháp âm vi diệu của ngài, rất mạch lạc, đơn giản do đó khiến đầy sức thuyết phục và lôi cuốn khán thính giả. Ngài đã viết nhiều tác phẩm, nhưng sẽ luôn ấn tượng khắc ghi những buổi pháp thoại của ngài đối với công chúng.

 

Ngài đã thay đổi diện mạo của Bandarban, phía Đông Nam Bangladesh thông qua việc sáng lập ngôi già lam Dhātu Jadi, các bảo tháp nổi tiếng. Ngày nay đã trở thành điểm nóng du lịch. Ngài cũng đã xây dựng các công trình cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia láng giềng như Yangon, Myanmar, Thái Lan, Ấn Độ.Ngài là một người rất lý tưởng có thể được nhìn thấy trong các tác phẩm của ngài. Ở khoảng thời gian ngắn như vậy, ngài có thể thực hiện nhiều công trình cơ sở vật chất và nhiều tác phẩm rất tuyệt vời”.

 

Hòa thượng U Pannya Jota Mahathera (tiếng Bengal: উ পঞ্ঞা জোত মহাথের ), được biết đến với tên địa phương là Đạo sư Bhante (22/12/1955-134/2020), vị danh tăng Phật giáo tăng già Nguyên thủy Bangladesh. Ngài vốn sinh trưởng trong Hoàng tộc Bohmong, tại Bandarban, Bangldesh. Trước đây ngài đã từng phục vụ trong Chính phủ Bangladesh với tư cách là Thẩm phán trong khoảng 8 năm; sau đó ngài xuất gia dự vào hàng Thích tử và trở thành vị tăng sĩ Phật giáo nguyên thủy Bangladesh.

 
HT.  U Pannya Jota Mahathera 2

Tiểu sử Hòa thượng U Pannya Jota Mahathera

(22/12/1955-134/2020)

 

Hòa thượng U Pannya Jota Mahathera tục danh U Hla Saw (tiếng Bengal: উচহ্লা ) sinh ngày 22 tháng 12 năm 1955, tại Bandarban, Bangladesh. Phụ thân của ngài là cụ ông Hla Thowai Phru, hiền mẫu là cụ bà MRI Ching, và nội tổ của ngài cụ ông Kyaw Zaw Than, vị thân vương của Hoàng gia Bohmong. Năm lên 6 tuổi, ngài được cha mẹ đưa vào học đường tại quê nhà Bandarban và sau khi học trung học, cao đẳng và tiếp tục học trường Đại học Dhaka chuyên khoa Luật.

 

Trong đại học, ngài đã lãnh đạo một số tổ chức trong việc thúc đẩy giáo dục sinh viên. Ngài đã tham gia nhiều tổ chức, nổi bật là việc quảng bá di sản văn hóa bản địa. Ngài đã từng hát những bài hát truyền thống tại các chức năng và nhiều bài hát Marma nổi tiếng như “Sangrai ma) do ngài sáng tác vào năm 1975. Tiêu đề vẫn được hát nhiều nhất trong lễ hội “Sangrain” của cộng đồng Marma, đánh dấu sự kết thúc của năm. Ngài đã thành lập một ban nhạc có tên Nhóm nghệ sĩ Hoàng gia (The Royal Artists Grouo,  tiếng Bengal: দি রয়েল শিল্পীগোষ্ঠী).

 

Sau khi tốt nghiệp Cử nhân Luật, ngài phục vụ Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Bangladesh với tư cách là Thẩm phán tại Tòa án Hathazari, Chittangong trong khoảng 8 năm. Là vị Thẩm phán, ngài đã làm việc vì công lý và hòa bình cho xã hội. Sau khi xuất gia, ngài quyết tâm, mạnh mẽ để trở thành vị tăng sĩ Phật giáo. Ngài đã từ chức Thẩm phán và trở thành một vị Tỳ kheo vào năm 1990 tại Ching Mrong Bihara, Parbatya Hayogram và được Hòa thượng Bổn sư ban pháp danh U Pannya Joto Mahatthere. Kể từ đó, ngài không biết mệt mõi trong Phật sự và hoằng truyền chính pháp.

 

Ngài rất nhạy bén trong việc nghiên cứu Phật học và chuyên sâu thực hành thiền định. Ngài tin rằng Phật giáo có khả năng mang lại hòa bình trong tâm trí của người dân. Việc giảng dạy Phật học và thiền định trong Phật giáo là thế mạnh của ngài cho xã hội, phục vụ cho việc xây dựng hòa bình. Ngài từng bước chân an lạc, thanh thản hồn nhiên vân du đó đây trên hành trình hoằng pháp và tiếp cận người dân từ thành thị đến nông thôn. Ngài là một trong những nhà cải cách xã hội, đã đưa ra sự hiểu biết khoa học biện minh cho Phật giáo, và giúp chuyển hóa những người mê tín, tà kiến quay trở về với chánh tín, chánh kiến. Để phát huy ánh sáng chánh tín, chánh kiến xua tan bóng đêm tà kiến mê tín, mang lại niềm tự tin đức tự chủ cho người dân Bangladesh. Bên cạnh việc giảng dạy Phật pháp, ngài dành phần lớn thời gian để thực nghiệm thiền định. Ngài đã viếng thăm nhiều quốc gia khác nhau, và gặp gỡ nhiều vị thiền sư nổi tiếng như SN Goenka. Ngài đã tham học từ nhiều vị thiền sư nổi tiếng tại Ấn Độ và Myanmar.

 

Một số tổ chức của ngài là cho mục đích phúc lợi xã hội. Ngài xây dựng trường học và trung tâm học tập đặc biệt là cho trẻ em và trương Phật học đào tạo tăng tài. Mục đích của ngài là giáo dục thế hệ trẻ của xã hội vì ngài tin rằng tương lai nằm trong tay của giới trẻ. Nguyên nhân của sự chuyên chế và xung đột trong xã hội là do giáo dục. Những người có giáo dục không phù hợp và không có giáo dục có thể tạo ra vấn đề trong xã hội. Họ có thể làm điều dại dột vì thiếu hiểu biết và giáo dục. Nhiều mâu thuẫn xã hội được thực hiện bởi những người mù chữ vì họ không thể đọc và suy nghĩ về vấn đề này. Vì vậy, mục tiêu đáng kính nhất của ngài là xây dựng một xã hội có giáo dục bằng cách cung cấp các nghiên cứu thế tục và tôn giáo.

 

Ngài cũng hy vọng rằng, trẻ em trong các tổ chức của mình sẽ là tấm gương và đóng góp cho xã hội. Trong bộ phim tài liệu, ngài được phỏng vấn về các tác phẩm của mình cho trẻ em và ngài nói rằng, ngài muốn cung cấp giáo dục cho trẻ em nghèo mà cha mẹ không có khả năng trả học phí để gửi con đến trường, ngài đề cập đến một số trẻ em này ở xa từ những vùng sâu xa và đồi núi của Chittagong Hill Tracts nơi không có điều kiện đến các trường học và cơ sở vật chất hiện đại. Đây là một tổ chức xã hội của ngài dành cho trẻ em.

 

Ngài đã thành lập Trung tâm học tập hạnh phúc (trại trẻ mồ côi và trường học miễn phí)” tại Bandarban, nơi có khoảng 317 trẻ em đang học.

 

Năm 2016, ngài xây dựng Trung tâm học tập Be Happy

 

Dự các Sự kiện trên thế giới:

 

- Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo Thế giới lần thứ 4 tại Yangon, Myanmar năm 2004.

 

- Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc lần thứ 4 tại Bangkok, Thái Lan năm 2007.

                                                     

- Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc lần thứ 5 tại Hà Nội, Việt Nam năm 2008.

 

- Hội nghị Thượng đỉnh của Liên minh Tôn giáo Thế giới tại Seoul, Hàn Quốc năm 2015.

 

Các tác phẩm:

      

Ngài không chỉ là nhà Phật học uyên thâm mà còn là một thiền giả tu tập nghiêm mật. Trong quá trình thuyết giảng từ sự kinh nghiệm công phu tu tập thiền định, khiến khán thính giả dễ hiểu Phật pháp. Những tác phẩm của ngài trước tác và xuất bản được sự đón nhận rộng rãi bởi bạn đọc:

 

- Sadhana Paddhati O Dikkha 1990 Bangla

 

- Bidorshon Darpon   Vipassana Mirror Bangla

 

- Poncha Guno Ananta Bandana    2003      Bangla, Marma

 

- Deshona Kolpotoru tập 1 (Nirvana for Them) 2005      Bangla

 

 - Deshona Kolpotoru tập 2 (Is Buddhism a religion?)    2005     

 

- Bangla Deshona Kolpotoru tập 3 (Reincarnation and Science)       2005      Bangla

 

- Deshona Kolpotoru tập 4 (Nation, Dhamma, Buddha Sasana)       2015      Bangla

 

- Deshona Kolpotoru tập 5

 

Sáng lập cơ sở Phật giáo:

 

Ngoài ra, ngài đã xây dựng một số cơ sở tự viện Phật giáo trong và ngoài nước. Mục tiêu của việc xây dựng cơ sở Phật giáo tại các quốc gia khác là giữ cho sự trao đổi ý tưởng và mối quan hệ bền vững giữa của các quốc gia. Đây là một số ngôi già lam tự viện Phật giáo do ngài đã và đang xây dựng:

 

- Zin Mara Jayi Dhatu Zadi | Bandarban, Bangladesh. (di tích hơn 2500 tuổi, đang tái thiết)

 

- Khyaungwa Kyaung Raja Vihara (Chief priest), Bandarban, Bangladesh.

 

- Pannya Passanara Buddhist Monastery, Bandarban, Bangladesh.

 

- Buddha Dhatu Naundawgree Zadi,   Bandarban, Bangladesh.

 

- Maha Shuka Chutongbrae Buddha Dhatu Jadi,  Bandarban, Bangladesh.

 

- Rama Naundawgree Pagoda, Bandarban, Bangladesh.

 

- Rama Zadi,  Bandarban, Bangladesh.

 

- Bangladesh Buddhist Monastery, Yangoon, Myanmar.

 

- Bangladesh Buddhist Monastery, Maung Daw, Arakan State, Myanmar.

 

- Kyaukmalaung Zadi, Bandarban, Bangladesh. (đang xây dựng)

 

- The Holy Jaghat Santi Sukha Zadi, Chimbuk, Bandarban, Bangladesh. (đang xây dựng)

 

- Buddha Gaya Temple, Buddha Gaya, India. (đang xây dựng)

 

- Nirvana Setu Bridge (Đường nối giữa chùa Rama Zadi và chùa Rama Naundawgree Pagoda), Bandarban, Bangladesh. (đang xây dựng)

 

Cả cuộc đời của ngài, lúc tại gia làm vị quan trên cương vị Thẩm phán cầm cân nẩy mực xử án công minh chính trực, vì công lý và hòa bình cho xã hội, khi xuất gia trở thành Thích tử, Sứ giả Như Lai, hiến thân cho đạo pháp với lý tưởng Bồ tát đạo, mang ánh đạo vàng từ bi trí tuệ tỏa sáng khắp muôn phương.

 

Huyễn thân tứ đại của ngài đã chuyển hóa năng lực vật chất bất diệt (tứ đại vốn vô sinh), giác linh ngài nhập vào chốn vô sinh bất diệt. Tuy nhục thân của ngài vĩnh viễn không còn ở trần gian nữa, nhưng hương đức hạnh của ngài mãi với núi sông đất nước, trái tim của ngài vẫn cùng nhịp thở với muôn vật và con người Nam Á, Ấn Độ Dương.

 

Thích Vân Phong

(Nguồn: Bangladesh Post) 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8093)
Mỗi lần đi Huế lòng tôi lại nao nao khôn tả. Huế là đạo, là thơ, là nghĩa tình ý vị, là tinh hoa văn hóa của ba miền đất Việt, nhưng cũng là mảnh đất khô cằn của đói nghèo khốn khổ “mùa đông thiếu áo mùa hè thiếu cơm” đã hứng chịu nhiều thiên tai nhân họa. Huế được phong phú về mặt văn hóa, tâm linh là nhờ hình ảnh những vị đại lão hòa thượng nơi đây đã sống, hành đạo và xả báo thân. Dù đã viên tịch, dư hương các ngài vẫn như còn phảng phất nơi các ngôi tổ đình tĩnh lặng và những rừng thông bạt ngàn.
28/03/2013(Xem: 1833)
Nếu xưa Có tổ Ðạt Ma Chín năm “diện bích” Dù không còn lưu bút tích Ðời vẫn đắt truyền
18/10/2012(Xem: 1921)
Lặng nhìn hương án khói tàn rơi Người đã ra đi - chốn xa vời… Lung linh ẩn hiện trong ký ức Gương sáng còn lưu mãi cõi đời.
13/09/2012(Xem: 1917)
Tôi được biết tin Tì Kheo Thích Minh Châu đã viên tịch ở Việt Nam ngày 1 tháng 9 năm 2012, thọ 93 tuổi. Tin báo đến không trực tiếp hay qua dây nói, mà từ hai người báo tin mà tôi coi như em trong lòng, đã không muốn làm rộn tôi những tháng năm mai danh ẩn tích cuối đời. Nhưng trong thực tế, cái nghiệp dạy học của tôi không dứt được. Tôi ngưng sự giảng dạy y khoa và bỏ nước, bỏ tất cả cái sự nghiệp nghiên cứu và truyền thụ y học vô tận khi được lệnh phải hạ thấp cái học và cái biết của các y sĩ tương lai xuống mức độ bệnh kiết-lị, bệnh sán lãi (mà người ta gọi là y tế nhân dân). Tôi rũ bỏ hết, chỉ đội một cái nón lá trên đầu mà xuống thuyền vì tôi nghĩ rằng nếu tôi đi tu thì phải tới được Chánh Đẳng Chánh Giác dầu có phải qua vạn kiếp khổ, nhưng bảo rằng ngừng thì không, không và không. Sự biết lỏng là đầu mối của rất nhiều khổ đau.
11/09/2012(Xem: 1473)
Sáng nay con về lại Vạn Hạnh, không phải đi học, không phải nộp bài thi, không phải đi đảnh lễ,... mà để đi tiễn Ôn về với Phật. Con hòa mình vào dòng người tấp nập trên giao lộ Nguyễn Kiệm trong buổi sớm bình minh. Một ngày như mọi ngày nhưng cảnh vật hôm nay không còn bình yên nữa. Cây cỏ úa màu, hoa buồn ủ rũ. Mọi người tất bật, nôn nao bước nhanh về cổng chùa Vạn Hạnh, như sợ chậm chân sẽ không còn chỗ cho mình cung tiễn Thầy đi.
10/09/2012(Xem: 1415)
Bài viết này để kính dâng lên giác linh Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu, người vừa viên tịch tuần trước, với nội dung sẽ trích hoàn toàn từ bản Việt dịch của ngài trong Kinh Tương Ưng Bộ, tập trung trả lời câu hỏi về con đường giải thoát -- ly tham, ly sân, ly si.
08/09/2012(Xem: 1385)
Con nhận được hung tin khi đang dự lễ Vu lan ở một ngôi chùa miền quê nghèo nắng, gió. Khi đóa hồng vàng vừa được gắn lên ngực thì dòng cảm xúc đã chực chờ trong đôi mắt của con. Cố nén cảm xúc chảy ngược vào trong, con ráng bình tâm để chủ trì lễ hội rằm tháng Bảy, ai đó đâu biết rằng lần đầu con chủ lễ mà trong lòng pha chút tán loạn, phóng tâm.
08/09/2012(Xem: 9894)
Từ thuở hoang sơ đã nguyện làm mây trắng Che mát cho đời qua những đêm ngày oi bức điêu linh Bi mẫn lập ra muôn hạnh Sa mạc cháy bỏng ươm thành rừng xanh
08/09/2012(Xem: 5959)
Mùa trăng Báo hiếu vẳng chuông ngân, Tiễn biệt người xa lánh cõi trần.
05/09/2012(Xem: 1657)
Mặc dầu biết rằng Hòa thượng Minh Châu sức rất yếu, tuổi rất cao, bịnh rất nặng không còn sinh hoạt được như xưa, thì việc Thầy viên tịch là lẽ thường của sanh tử. Nhưng khi nghe tin Thầy từ nay đã vĩnh viễn ra đi, không còn có thể đến thăm Thầy tại thiền viện Vạn Hạnh nữa, tôi cảm thấy nhói tim mà không cầm được giọt lệ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567