🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Bảy, 20/11/2021 (16/10/Tân Sửu), chúng con được học về Thiền Sư Tức Lự, đời thứ 14, Thiền Phái Vô Ngôn Thông và đệ tử của Ngài là Cư Sĩ Ứng Thuận, đời thứ15 Thiền Phái Vô Ngôn Thông, đây cũng là 2 vị cuối cùng của Thiền phái này ở Việt Nam. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 313 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).
Sư quê ở Chu Minh, lúc nhỏ thông minh đọc hết các sách thế tục. Một hôm, Sư bỏ hết sở học, theo làm đồ đệ Đại sĩ Thông Thiền thưa hỏi chỗ huyền yếu.
Thường đến ngày giải hạ Sư đặt bẫy, bắt được một con chim Mãi Quĩ đem về dâng cho thầy.
TS Thông Thiền kinh ngạc bảo:
- Ngươi đã làm Tăng, sao lại phạm tội sát sanh? Làm sao tránh khỏi quả báo ngày sau?
Sư Phụ giải thích:
- Đạo hiệu của Thiền Sư Tức Lự rất hay, Tức là bặt dứt, Lự là suy lường. Tức Lự là bặt dứt suy lường là điểm đến cuối cùng của thiền tông, là chỗ rốt ráo không còn suy nghĩ nữa, đó lá tánh biết lặng lẽ, rõ biết đại dụng hiện tiền.
- Sự ngộ đạo của Sư rất kỳ đặc trong lịch sử thiền tông. Sau ba tháng an cư kiết hạ, những đệ tử thường dâng cúng dường lễ vật cho sư phụ. Riêng Ngài thì chạy ra đồng giăng bẫy để bắt con chim Mãi Quĩ về cúng dường cho sư phụ Thông Thiền. Ngài Thông Thiền nhìn thấy “món đồ” cúng dường này, liên lên tiếng cảnh báo rằng: “Ngươi đã làm Tăng, sao lại phạm tội sát sanh? Làm sao tránh khỏi quả báo ngày sau? “
Sư phụ tán đồng và lời cảnh báo này của Thiền Sư Thông Thiền đã ngăn ngừa sát nghiệp để giúp chúng đệ tử không bị quả báo đau khổ về sau. Sư Phụ đã kể lại câu chuyện cổ tích về Trưởng lão Putigatta Tissa.
Ngài Tissa sống ở thành Xá Vệ, nghe Đức Phật thuyết pháp liền hướng tâm về đạo, xin được xuất gia vào Tăng đoàn, được gọi là Trưởng Lão Tissa.
Thời gian cuối đời ngài lâm bệnh nặng, mụn nhọt nổi lên khắp người, mụn nhọt lớn dần lên bằng hạt táo, vỡ ra lở loét, xương của ngài bắt đầu hư thối, không ai đến gần để chăm sóc ngài. Đức Phật quán sát, biết đệ tử Tissa sắp chứng quả A La Hán và không còn ai nương tựa ngoài Phật. Ngài nấu nước nóng tắm cho trưởng lão và nhờ các tỳ kheo giặt y cho trưởng lão rồi phơi khô để mặc vào cho trưởng lão. Sau đó, Đức Thế Tôn khai thị đệ tử rằng:“Này Tỳ Kheo Tissa, thần thức sắp rời con, không bao lâu thân con sẽ thành vô dụng như khúc gỗ nằm lăn trên đất” và Đức Phật đọc bài kệ:
“Không bao lâu thân này,
Sẽ nằm dài trên đất,
Bị vất bỏ, vô thức,
Như khúc cây vô dụng”
(Kinh Pháp Cú số 41)
Nghe xong bài kệ, trưởng lão Putigatta Tisa liền chứng quả A La Hán và nhập vào vô dư Niết Bàn.
Đức Phật đã kể lại quá khứ của trưởng lão Tissa là người làm nghề bẫy chim trong thời của Đức Phật Ca Diếp. Khi bẫy được nhiều chim, ông bẻ chân và cánh để dồn một chỗ để hôm khác sau đem ra chợ bán.
Một hôm có một vị A La Hán khất thực, đang đi qua trước nhà ông. Ông liền phát thiện tâm cúng dường những món ăn thơm ngon vào bình bát của vị Thánh Tăng, đảnh lễ và thưa: “Bạch Tôn giả! Xin cho con được vào quả vị cao nhất mà Ngài đã chứng”.
Nhờ công Đức cúng dường này mà kiếp nay gặp được Phật Thích Ca, tu tập và chứng quả A La Hán.
Sư thưa:
- Con chính khi ấy không thấy có vật này, và cũng chẳng thấy có thân con, cũng chẳng biết có quả báo sát sanh, cho nên mới làm thế này.
TS Thông Thiền biết Sư là pháp khí bèn cho vào thất, mật truyền tâm ấn rằng:
- Ngươi nếu dùng đến chỗ đất ấy, dù có tạo tội ngũ nghịch, thất giá, cũng được thành Phật.
Có vị Tăng bên cạnh nghe trộm lời này, bèn kêu to rằng:
- Khổ thay, dù có việc thế ấy, tôi cũng chẳng nhận.
TS Thông Thiền lên tiếng bảo:
- Trộm! Trộm! Đâu nên, phi nhân sẽ gặp cơ hội tốt.
Sư nghe câu nói ấy liền lãnh ngộ.
Sư Phụ giải thích:
Câu nói của Ngài Tức Lự “Con chính khi ấy không thấy có vật này, và cũng chẳng thấy có thân con, cũng chẳng biết có quả báo sát sanh, cho nên mới làm thế này”, là biểu tỏ sự chứng đạt “ Tam Luân Thể Không ?
Tam Luân Thể không có nghĩa là Thể của 3 Luân đều là Không. Luân là bánh xe; có chức năng lăn. Không là trạng thái tịch tĩnh, xa lìa các pháp tướng, là trạng thái không nhiễm đắm thế gian, giữ tâm buông xả, xuất nhập tự tại.
Tam luân, gồm có:
1/ Thân luân: còn gọi là “thần thông luân”: Đức Phật trước khi thuyết pháp, vận dụng thần thông, giúp cho chúng sanh có được chánh tín.
2/Khẩu luân: còn gọi là “chánh giáo luân” nghĩa là lời Phật dạy giúp chúng sinh bỏ tà về chánh.
3/Ý luân; còn gọi là “ký tâm luân”: nghĩa là trước khi thuyết pháp, Phật dùng ý, quán sát căn tánh của chúng sinh, giảng pháp thích hợp, giúp người nghe được nhiều lợi lạc.
Thông thường chúng ta hay nghe nói “Ba điều không tịch” trong bố thí và cúng dường như sau:
1/Thí không: Người bố thí thấu rõ thân mình vốn không, đã biết thân ta là không thì không có tâm mong cầu phước báo.
2/Thọ không: Đã thấu suốt vốn không có người bố thí thì cũng không có người nhận sự bố thí, vì thế tự bản thân không sinh ý tưởng kiêu mạn.
3/Thí vật không: Vật tức là tiền bạc, của cải, vật báu... đã thấu suốt tất cả đều không thì tài vật dùng để bố thí cũng là không, do đó không sinh tâm tham lam hối tiếc.
Bố thí “Tam Luân không tịch” như trên thì mới gọi là bố-thí ba-la-mật. Trong kinh tạng Pali, tam luân không tịch về bố thí bao gồm: Hoan hỷ trước khi làm thiện, hoan hỷ đang khi làm thiện, hoan hỷ sau khi làm thiện.
Sư Phụ nhắc lại câu chuyện do Hoà Thượng Tâm Thanh kể trong một bài giảng về một Hoà Thượng ở tỉnh Quảng Nam về trụ trì ngôi chùa làng, mỗi ngày ngài cùng 5 đệ tử đi ra ngoài bẫy chim vì Hoà Thượng thấy người dân trong làng ai ai cũng làm nghề này, Hoà Thượng thấy đau lòng nhưng khuyên bảo họ không được, cuối cùng Hòa Thượng đành phải làm công việc giống như họ. Hoà Thượng dùng chim mồi hót hay nhất để trong lồng quyến rũ chim khác vào lồng. Hoà Thượng dùng dao dọa, kéo, la hét làm con chim dính bẫy sợ hãi, rồi mở lồng, chim bay hết, một lần rồi sợ điếng hồn, không để tự thân sụp bẫy nữa. Dạ bạch Sư Phụ, con xúc động khi nghe câu chuyện này vì tấm lòng từ bi tế độ loài xúc sanh của Hoà Thượng, trong tiếng la hét và làm mọi thứ cho chim sợ hãi để không dính bẫy là sức chú nguyện từ bi lực của Hoà Thượng đã truyền đến cho loài chim khiến cho chúng được bình an mãi mãi về sau.
Sau Sư trở về chùa Thông Thánh, làng Chu Minh, phủ Thiên Đức trụ trì. Ở đây, Sư giảng dạy cho môn đồ tông chỉ Thiền tông. Có người học trò lanh lợi là cư sĩ Ứng Thuận kế thừa tông của Sư.
Cư sĩ Ứng Thuận Vương
(Đời thứ 15, dòng Vô Ngôn Thông)
Ông tên Đỗ Văn, quê phường Hoa Thị, kinh đô Thăng Long. Tánh tình khoáng đạt không chịu đeo đuổi theo việc đời. Ban đầu làm chức quan trong triều Chiêu Lăng (Trần Thái Tông), đến hàng Trung phẩm Phụng ngự.
Khi rảnh việc, ông dốc chí học thiền, tay không rời kinh sách, sưu tầm cùng tận ý Tổ, thấu suốt Tâm tông. Ông làm đệ tử Thiền sư Tức Lự ở chùa Thông Thánh và thông suốt mật chỉ. Do đó, Thiền sư Tức Lự chẳng ngại đem tâm ấn trao truyền cho ông.
Sau khi đắc truyền, ông là người tai mắt trong tùng lâm, đồng loạt với Quốc sư Nhất Tông, Thiền sư Tiêu Dao, Thiền sư Giới Minh, Thiền sư Giới Viên ấy vậy.
Sư Phụ giải thích:
Cư sĩ Ứng Thuận Vương làm quan trong triều đại nhà Trần, vua Trần Thái Tông là vị vua đầu tiên của triều đại nhà Trần.
Ngài là cư sĩ đặc biệt được thiền Sư Tức Lự truyền tâm ấn.
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là đệ tử đắc pháp của thiền sư Tiêu Dao.
Cư sĩ Bàng Long Uẩn là cư sĩ nổi tiếng đắc pháp bên Trung Hoa.
Cuối bài giảng, Sư Phụ diễn ngâm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Tức Lự & Cư Sĩ Ứng Thuận Vương do Thượng Tọa Chúc Hiền sáng tán cúng dường Ngài:
Thuở nhỏ siêng năng đọc sách đời
Thông minh đĩnh ngộ hướng thiền nôi
Xuất gia học đạo vui kinh kệ
Lạy Phật tham thiền giữ bản hoài
Khế ngộ tam luân đều vắng lặng
Thầm tri nhất thể thảy thường soi
Thông Thiền mật ý trao tâm ấn
Tức Lự hoằng dương xiển đạo ngời
Đạo ngời soi sáng mở gương tâm
Dẫn dắt môn nhân vượt khổ trầm
Hướng cội Bồ đề nương bến giác
Xây nhà trí tuệ dưỡng bờ an
Đêm ngày thanh thản soi nguồn đức
Năm tháng tiêu dao mở suối ân
Thông Thánh thiền môn chuông sớm vẳng
Tăng nhân thạch trụ sáng trăng rằm.
Ứng Thuận Cư Sĩ Hạnh
Tánh tình phóng khoáng hướng tâm thiền
Chẳng bận quan quyền quy Phật duyên
Dốc chí học thiền nghiên bối diệp
Quyết tâm tu Phật hướng thiền nguyên
Sưu tầm ý tổ thông nguồn diệu
Thấu suốt tâm tông tỏ mạch huyền
Tức Lự thiền sư trao ấn chứng
Vang danh một thuở xứng tâm truyền
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Thiền Sư Tức Lự. Đạo hiệu của Ngài nói lên sự ngộ đạo rất kỳ đặc do sự bặt dứt suy lường mà chứng đạt thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú, để rồi ngài lại có cách trình pháp kỳ lạ và hy hữu nhất xưa nay với lễ vật cúng dường Sư phụ một chim Mãi Quĩ để biểu diễn cái thấy “Tam Luân Thể Không” quá diệu kỳ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).
Thiền Sư Tức Lự (Đời thứ 14, Thiền Phái Vô Ngôn Thông)
& Cư Sĩ Ứng Thuận Vương, (Đời thứ 15, Thiền Phái Vô Ngôn Thông)
Kính dâng Thầy bài trình pháp về Hai truyền thừa cuối của Thiền phái Vô Ngôn Thông ? Kính bạch Thầy, bài pháp thoại quá tuyệt vời và sâu sắc mà khi vừa mới xem qua hành trạng quý Ngài con không thể hiểu được yếu nghĩa thâm sâu cho đến khi được nghe Thầy.
Thật là một đại duyên cho những ai ( người viết được vinh hạnh tham dự vào hội chúng ) có được diễm phúc nghe được đến bài pháp thoại thứ 313 của TT Nguyên Tạng trong số những bài phápthoại về Tổ Sư Thiền Ấn, Trung, và VN và đến hôm nay vào thế hệ truyền thừa cuối cùng của Thiền phái Vô Ngôn Thông để bước sang Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một thiền phái được xem là tiếp nối nhưng là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế kỷ 12 – đó là dòng Thảo Đường, Vô Ngôn Thông và Tì-ni-đa-lưu-chi cùng với sự pha trộn ảnh hưởng của Tông Lâm Tế.
Nhìn lại những gì đã được truyền trao hẵn chúng ta đều nhận định được rằng :
Thiền phái Vô Ngôn Thông nhấn mạnh thuyết đốn ngộ chủ trương con người có thể, trong một giây lát, đạt được quả vị giác ngộ, khỏi cần đi qua nhiều giai đoạn tiệm tiến.
Kinh Viên Giác mà nhiều thiền sư trong thiền phái Vô Ngôn Thông (như Viên Chiếu, Tín Học, Tịnh Lực,...) rất chuyên trì được mô tả là một kinh dạy về phương pháp đốn ngộ. Kinh này có câu “Thiện nam tử, kinh này gọi là giáo lýđốn ngộ của đại thừa, những chúng sinh có đốn căn ở đây tức là có khả năng lớn về trí tuệ và hành đạo. Đối lại với đốn căn là tiệm căn, tức là căn trí của những kẻ phải đi từng bước một, trải qua nhiều kiếp tu hành mới dần dần chứng nhập được Phật quả. Kinh Viên Giác là một thiền định đại thừa.
Sau sđó về thuyết vô ngã và vô dắc dựa vào kinh Kim Cang Bát Nhã để chỉ rõ Đạo không phải cái gì xa xôi huyền diệu, chính là Tâm thể của chúng sanh. Nếu người nhận ra Tâm chân thật của chính mình, sự tu hành không sớm thì chầy cũng sẽ thành Phật. Tâm chân thật này cũng gọi là Tánh giác hay Phật tánh. Thấy được Tánh giác thì thành Phật không nghi, vì đã biết Phật nhân nhất định sẽ đến Phật quả. Chỉ cho người nhận được Bản tâm mình là chủ đích của Thiền tông.
Nói chung là làm sao phát huy được cái biết của mình, mà chúng sinh phàm phu khi mê có tới hai thứ biết.
Một thứ là “biết có lời” là cái biết người ta thường xuyên xử dụng suy nghĩ hằng ngày.
Đây là cái biết của vọng Đó là cái biết do học hỏi, do kinh nghiệm mà có. Những kinh nghiệm này được cất giữ trong ký ức, khi gặp cơ hội thì nó trồi lên tạo thành cái biết của quá khứ, định danh liền cho đối tượng. Cái biết trong hiện tại là cái biết của ý thức, khi đối diện với đối tượng trước mặt là nó biết phân biệt, so sánh đưa đến cảm thọ thích hay không thích, dẫn đến tưởng tượng những chuyện chưa xảy ra. Tất cả những cái biết này do bản ngã tức “cái Ta” làm chủ.
Kinh Kim Cang gọi đó là cái biết của “tâm ba thời”. Tâm ba thời là tâm quá khứ, hiện tại, vị lai. Tóm lại, cái biết này không hoàn toàn chính xác vì nó lấy tin tức từ cái biết quá khứ để so sánh phân biệt rồi đưa đến suy luận viễn vong về đối tượng nên bị xem là cái biết của Vọng tâm, gọi là Tướng biết.
Và ....
Một thứ biết khác là “biết không lời” ai cũng có. Đó là cái biết lặng lẽ, chân thật, đối tượng như thế nào biết như thế đó. Đây là cái biết của người tu tập, bước được vào dòng Thánh, là cái biết của Chân tâm, gọi là Tánh Giác
Học đến Thiền Sư Tức Lự chúng ta đã thấy Ngài được minh sư Thông Thiền ban pháp hiệu để chỉ cho cái biết lặng lẽ này và cũng không quên tri ân Ngài đã cảnh báo về giới sát sanh cho tất cả mọi người qua lời khiển trách Thiền sư Tức Lự
(Thông Thiền kinh ngạc bảo:
- Ngươi đã làm Tăng, sao lại phạm tội sát sanh? Làm sao tránh khỏi quả báo ngày sau?)
Chúng ta đã học về giới ra hai loại giới: Hiển và mật. Mười hiển giới này có giá trị như nhau cho tăng, ni và cư sĩ (ngoài giới thứ 3), được ghi lại trong kinh Phạm võng (sa. brahmajālasūtra):
Không sát sinh;
Không lấy những gì người ta không cho;
Không tà dâm;
Không nói dối;
Không mua bán rượu;
Không nói về hành động xấu của người khác;
Không tự khen mình, chê người;
Sẵn lòng bố thí;
Không giận hờn;
Không phỉ báng Tam bảo.
Mười hiển giới nêu trên rất quan trọng, có ích về khía cạnh đạo lý thế gian và cả khía cạnh cơ sở của một cuộc đời hành đạo xuất thế.
Kính trân trọng tri ân Giảng Sư Thích Nguyên Tạng đã đùng tích sử trong kệ cú 41 của kinh Pháp Cú trong bài pháp thoại này do nguyên nhân nhiều kiếp phạm giới sát sanh
"Không bao lâu thân này,
Sẽ nằm dài trên đất,
Bị vất bỏ, vô thức,
Như khúc cây vô dụng." (Pháp Cú 41)
Kính trân trọng,
Kính ngưỡng Thiền Sư Tức Lự ...đạo hiệu diệu nghĩa (1)
Bặt dứt suy nghĩ ... cái biết của chân tâm
Điểm đến rốt ráo cuối cùng của Thiền Tông (2)
Tam Luân Thể Không thấu được huyền yếu (3)
Ngày giải hạ ...chim lạ Mã Quĩ dâng biếu (4)
Lời ấn chứng ... kỳ đặc của Sư Phụ Thông Thiền (5)
Kính đa tạ Giảng Sư ...
...Tánh giới , giá giới luật nghiêm (6)
Và ý nghĩa về chức danh Hoà Thượng (7)
Ôn nhắc Phật Giáo Quảng Nam Tứ Long Tượng (8)
Mượn câu chuyện trong pháp thoại HT Thích Tâm Thanh (9)
Và đại nguyện 18 “ Thập nguyện tất sanh ‘ (10)
Chùa Thông Thánh, nơi truyền dạy Thiền Tông yếu chỉ (11)
Đệ tử nối pháp ỨNG THUẬN VƯƠNG Cư sĩ (12)
Thế hệ cuối Thiền phái Vô Ngôn Thông (13)
Kính tri ân Giảng Sư ... nguyện rõ suốt tam luân (14)
Trong niêm ân Đức Phật ... Đấng Thiện Thệ mới có !
Nam Mô Thiền Sư Tức Lự tác đại chứng minh.
Huệ Hương
Chú thích :
(1) TỨC có nghĩa là Bặt dứt
LỰ ...là suy nghĩ
Sư quê ở Chu Minh, lúc nhỏ thông minh đọc hết các sách thế tục. Một hôm, Sư bỏ hết sở học, theo làm đồ đệ Đại sĩ Thông Thiền thưa hỏi chỗ huyền yếu.
Đây là chỗ đến rốt ráo của Phật Pháp mà Ngài Thông Thiền lãhh hội
"Phật pháp theo nghĩa rốt ráo không phải là giáo lý của Đức Phật, mà Phật pháp ở đây chính là chỗ lặng lẽ của viên mãn, của thể tánh tịnh minh, chân tâm thường trú của hành giả, vô sở đắc, vô sở chứng. Phật Pháp không phải là “pháp biết” vì cái biết thông thường theo thế gian là cái biết của vọng tưởng"
(2" Thiền Tông chủ trương " chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo lý”.
. Nếu có pháp truyền ngoài kinh điển, đó là pháp ngoại đạo, đâu phải Phật giáo. Vì kinh điển là tấm bản đồ vẽ đường đi đến khó tàng Tâm Vì thế câu “chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo lý” mang sẵn tính chất trị bệnh và đầy đủ tinh thần chỉ bày sự thật. Thiền tông cốt chỉ cho chúng ta thấy đạo qua mọi phương tiện, đừng mắc kẹt phương tiện mà quên đạo.
Chính vì thế, nên nói “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Đạo không phải cái gì xa xôi huyền diệu, chính là Tâm thể của chúng sanh. Nếu người nhận ra Tâm chân thật của chính mình, sự tu hành không sớm thì chầy cũng sẽ thành Phật. Tâm chân thật này cũng gọi là Tánh giác hay Phật tánh. Thấy được Tánh giác thì thành Phật không nghi, vì đã biết Phật nhân nhất định sẽ đến Phật quả. Chỉ cho người nhận được Bản tâm mình là chủ đích của Thiền tông.
(3)
Không các tướng là “Không”. Không khởi diệt là “tịch”. Rỗng rang xa lìa tất cả tướng, không tâm niệm khởi diệt gọi là hạnh “không tịch”. Cảnh giới không có bất cứ tướng trạng nào, không có sinh ra và mất đi, không có sai biệt đối lập, vượt thoát thời gian không gian. Đây là nhận thức hoặc thể nghiệm về chân tướng sự vật của người giác ngộ.
Tam Luân Thể Không Tức là khi thực hành pháp bố thí, Bồ tát phải thấu suốt thể của người bố thí, người nhận sự bố thí và vật dùng để bố thí đều là không để phá trừ tướng chấp trước. 1. Thí không: Người bố thí thấu rõ thân mình vốn không, đã biết thân ta là không thì không có tâm mong cầu phúc báo.2. Thụ không: Đã thấu suốt vốn không có người bố thí thì cũng chẳng có người nhận sự bố thí, vì thế không sinh ý tưởng kiêu mạn. 3. Thí vật không: Vật tức là tiền bạc, của cải, vật báu... đã thấu suốt tất cả đều không thì tài vật dùng để bố thí cũng là không, do đó không sinh tâm tham lam hối tiếc. [X. Năng đoạn kim cương bát nhã ba la mật đa kinh thích Q.thượng]. (xt. Tam Luân Tướng). TAM LUÂN TƯỚNG Ba tướng luân. Chỉ cho người bố thí, người nhận sự bố thí và vật để bố thí. Tướng Tam luân tồn tại trong ý tưởng gọi là Hữu tướng tam luân. Diệt Tam luân này, trụ nơi vô tâm mà thực hành pháp bố thí thì đó là Thí ba la mật tam luân thanh tịnh. Theo Kim cương bát nhã ba la mật kinh chú giải, người đời làm việc bố thí tâm mong cầu quả báo, đó là trước tướng; nhưng Bồ tát tu hành bố thí thì thấu suốt Tam luân thể không, nên không chấp tướng. Pháp giới thứ đệ quyển hạ (Đại 46, 686 trung) nói:Nếu khi thực hành bố thí mà thấy người thí, người nhận và vật thí đều là không, bất khả đắc, thì vào được Thực tướng chính quán. Cho nên Tam luân tướng có chia ra thô và tế. Tự thân người bố thí khởi tâm kiêu mạn, đối với người nhận sự bố thí thì có ý nghĩ yêu ghét, đối với vật bố thí thì sinh tâm hối tiếc, đó là Tam luân tướng thô, chưa đạt được lí vạn pháp như huyễn. Còn người chấp thực ngã, thực pháp mà bố thí thì là Tam luân tướng tế. [X. kinh Đại bát nhã ba la mật Q.192]. (xt. Tam Luân Thể Không).
(4) (5)
Thường đến ngày giải hạ Sư đặt bẫy, bắt được một con chim Mãi Quĩ đem về dâng cho thầy.
Thông Thiền kinh ngạc bảo:
- Ngươi đã làm Tăng, sao lại phạm tội sát sanh? Làm sao tránh khỏi quả báo ngày sau?
Sư thưa:
- Con chính khi ấy chẳng thấy có vật này, và cũng chẳng thấy có thân con, cũng chẳng biết có quả báo sát sanh, cho nên mới làm thế này.
Thông Thiền biết Sư là pháp khí bèn cho vào thất, mật truyền tâm ấn rằng:
- Ngươi nếu dùng đến chỗ đất ấy, dù có tạo tội ngũ nghịch, thất giá, cũng được thành Phật.
(6)
Giới gồm có Tính giới và giá giới.
Tính giới cũng còn gọi là Cựu giới, Chủ giới, Tính trọng giới. Giới này bản chất là tội ác như Giết hại, trộm cướp, tà dâm và vọng ngữ.
Tánh Giới là giới của chính tự tánh, ví như tự tánh của sát, đạo, dâm là giới không đợi Phật chế mới có giới nên gọi là tánh giác
Dù có quy y hay không vẫn bị nhân quả nghiệp báo
Giá giới cũng gọi là Tân giới, khách giới,tức Thế cơ hiềm giới, ly ác giới. Giới này bản chất không phải là tội ác, không nằm trong bốn giới nặng như trên…
(7) Hòa thượng là nơi phát sanh đạo lực,là sửa đổi cho đệ tử có phẩm hạnh chân chánh,(Biết có tội, biết không có tội, la rầy kích phát đó gọi là Thầy ta. Noi theo thiện pháp mà dạy dỗ,) Ngài Nghĩa Tịnh gọi là: “Ổ Ba Đà Da, Trung Hoa dịch là Thân Giáo Sư, do vì vị này hay dạy hạnh nghiệp xuất thế. Cho nên Hòa thượng có hai kiểu:
1. Thân giáo: Tức là Thầy dạy học.
2. Y chỉ: Tức là Thầy mà mình nương theo để học vậy”.
(8) Tứ trụ Phật Giáo Quảng Nam : 1- HT Như Vạn -2- HT Long Trí 3- HT Chơn Phát 4- Như Huệ
(9) HT Thích Tâm Thanh là sư huynh của HT Thích Như Điển và là đệ tử của HT Long Trí một đại giảng sư của đất Đại Ninh / VN có kể về chuyện HT muốn giáo hoá Đạo lý cho một làng chuyên nghề bẩy chim mà phải dùng độc trị độc , Ngài đã cùng đồ đệ săn hết chim trong làng và chỉ dạy cho chim rời xa chốn ấy không bao giờ dám trỏ lại nơi cũ .
(10) Nguyện thứ 18: THẬP NIỆM TÂT SANH
Lúc tôi thành Phật thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn sanh về cõi nước tôi nhẫn đến 10 niệm, nếu không được sanh, (trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp), thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ đề tâm tu các công đức nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nều tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
(11)
Sau Sư trở về chùa Thông Thánh làng Chu Minh, phủ Thiên Đức trụ trì. Ở đây, Sư giảng dạy cho môn đồ tông chỉ Thiền tông. Có người học trò lanh lợi là cư sĩ Ứng Thuận kế thừa tông của Sư.
(12) Cư Sĩ Ứng Thuận Vương
Ông tên Đỗ Văn, quê phường Hoa Thị, kinh đô Thăng Long. Tánh tình khoáng đạt không chịu đeo đuổi theo việc đời. Ban đầu làm chức quan trong triều Chiêu Lăng (Trần Thái Tông), đến hàng Trung phẩm Phụng ngự.
Khi rảnh việc, ông dốc chí học thiền, tay không rời kinh sách, sưu tầm cùng tận ý Tổ, thấu suốt tâm tông. Ông làm đệ tử Thiền sư Tức Lự ở chùa Thông Thánh và thông suốt mật chỉ. Do đó, Thiền sư Tức Lự chẳng ngại đem tâm ấn trao truyền cho ông.
Sau khi đắc truyền, ông là người tai mắt trong tùng lâm, đồng loạt với Quốc sư Nhất Tông, Thiền sư Tiêu Dao, Thiền sư Giới Minh, Thiền sư Giới Viên ấy vậy.
( 13)..... những thế hệ cuối của thiền phái Vô Ngôn Thông :
Thế hệ 12. Thường Chiếu ( mất 1230)và sáu người khuyết lục trong đó có thể có Thiền sư Trí Thông mà thiền Sư Hiện Quang đến thọ cụ túc sau khi Thường Chiếu mất
Thế hệ 13. Thông Thiền (mất 1228) Thần Nghi (mất 1221) và ba người khuyết lục
Thế hệ 14. Tức Lự ( ỉ mất ?) Hiện Quang ( mất 1221) và ba người khuyết lục trong đó có thể có Ấn Không đệ tử của Thần Nhi
Thế hệ 15. Ứng Vương (mất ?) và sáu người khuyết lục trong đó có thể có Đạo Viên là đệ tử của Hiện Quang
Thế hệ 16. Tiêu Diêu (mất ?) Giới Minh ( mất ?) Giới Viên ( mất ?) Nhất Tông Quốc Sư ( mất ?)
(14) Đức Thế Tôn tuỳ thời thuyết pháp chân lý chắc chắn đem lại sự lợi ích cho chúng sinh, nếu không đem lại lợi ích, thì Đức Thế Tôn không thuyết pháp.
Đức Thế Tôn biết rõ 6 trường hợp, trường hợp nào nên thuyết giảng và trường hợp nào không nên thuyết giảng như sau:
Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.
Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.
Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.
Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.
Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài biết tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.
Đức Thế Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài biết tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.
Do đó, Đức Thế Tôn có Ân đức Sugato với ý nghĩa thuyết pháp chân lý đem lại sự lợi ích cho chúng sinh.
Ân đức Sugato có 4 ý nghĩa tóm tắt này, đặc biệt đáng ghi nhớ ý nghĩa đức Sugato thuyết pháp chân lý đem lại lợi ích cho chúng sinh.
Điều này nằm trong Tam luân mà chỉ có Đức Phật mới đạt được :
1- Thân Luân = thần thông luân
2- Khẩu Luân = Chánh giáo luân = Lời dạy của Đức Thế Tôn
3- Ý Luân = Ý, Tâm Luân Đúc Phật trước khi giảng pháp đã quán sát căn cơ trình độ của chúng sinh
🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️