Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18-19. Thiền sư Định Huệ, Thiền Sư Vạn Hạnh (938– 1018) Đời thứ 12 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Sư Phụ của Vua Lý Thái Tổ 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️

29/08/202109:23(Xem: 15027)
18-19. Thiền sư Định Huệ, Thiền Sư Vạn Hạnh (938– 1018) Đời thứ 12 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Sư Phụ của Vua Lý Thái Tổ 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️


259_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Van Hanh


Kính bạch Sư Phụ,

Bài pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 262 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch Covid (đầu tháng 5-2020).

 

Hôm nay chúng con học 2 vị thiền sư:

1-Thiền Sư Định Huệ, thuộc đời thứ 12 dòng Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Khúc, quê ở Cẩm Điền, Phong Châu. Lúc đầu, Sư cùng thiền sư Vạn Hạnh thờ Thiền Ông Đạo Giả làm thầy, và được truyền tâm ấn.


Sau Sư về trụ trì ở chùa Quang Hưng, làng An Trình, phủ Thiên Đức.


Khi sắp tịch, Sư trao pháp ấn lại cho đệ tử là Lâm Huệ Sinh.

 

Thầy Chúc Hiền có làm bài thơ tán thán công hạnh của Thiền Sư Định Huệ như sau:

Sanh thời đảnh lễ đức Thiền Ông
Tổ ấn thừa đương quyết một lòng
Tấn đạo nghiêm thân truyền giáo pháp
Tu thiền nhập định xiễn tông phong
Quang Hưng thạch trụ gương tâm sáng
Định Huệ thiền sư giới đức trong
Mọi nẻo đi về thơm suối đạo
An Trinh Thiên Đức rạng thiền tông.

  


2- Thiền Sư Vạn Hạnh, thuộc đời thứ 12 thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Ngài là Sư Phụ của Lý Công Uẩn, đã hướng dẫn cho vị này một thời gian dài trước khi khai sáng triều đại nhà Lý (kéo dài 216 năm).


Thiền Ông Đạo Giả có hai đệ tử đắc pháp là thiền sư Định Huệ và thiền sư Vạn Hạnh.


Sư phụ giải thích:

Thiền sư Vạn Hạnh nổi tiếng nhất trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, có công dạy dỗ Lý Công Uẩn mở ra triều đại nhà Lý đem lại vinh quang cho lịch sử nước Việt.

Sư họ Nguyễn, quê ở làng Cổ Pháp, gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã thông minh khác thường, thông suốt Tam học và nghiên cứu Bách Luận, mà vẫn xem thường công danh phú quý.

 

Sư phụ giải thích:
Thiền Sư Vạn Hạnh thông suốt tam học (giới, định và tuệ) và nhất là có duyên nghiên cứu Bộ Bách Luận (2 quyển) do Tổ Sư Ấn Độ thứ 15 Ca Na Đề Bà (Āryadeva/Kanadeva) ở Ấn Độ biên soạn vào thế kỷ thứ ba được Bồ tát Thế Thân chú thích, ngài Cưu Ma La Thập dịch ra chữ Hán năm 404, kế thừa tư tưởng trong Trung Luận của Bồ tát Long Thọ dùng nghĩa không, vô ngã …của Phật giáo đại thừa để phá kiến chấp của ngoại đạo.
Ngài Ca Na Đề Bà tác giả bộ Bách Luận là đệ tử và đắc pháp với Tổ Sư Long Thọ (Nagarjuna, Tổ 14). Sư Phụ có nhắc lại câu chuyện của ngài Ca Na Đề Bà khi đi hoằng pháp qua một thành phố đã độ được cho La Hầu La Đa  (Rahulata) đã ăn một thứ nấm do một tỳ kheo đầu thai để trả nợ, La Hầu La Đa phát tâm xuất gia tu và trở thành một vị tổ thứ 16 của Phật giáo ở Ấn Độ.


Kính mời xem tiếp





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/07/2011(Xem: 14896)
Một lòng mỏi mệt không nài, Cầu về Cực Lạc ngồi đài liên hoa. Cha lành vốn thiệt Di Đà, Soi hào quang tịnh chói lòa thân con.
16/06/2011(Xem: 25893)
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Giọng niệm: HT Thích Hạnh Hòa, TT Thích Tâm Phương, TT Thích Nguyên Tạng www.quangduc.com
13/06/2011(Xem: 11011)
Audio: Thiền Tập, bài giảng của TT Tâm Thành
23/04/2011(Xem: 4207)
Tại sao phải hành sám hối? Tôi nhận thức rằng muốn nghĩ đến vãng sanh Tịnh Độ cần phải sám hối trước, phát bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật. Chỉ có sám hối nghiệp chướng của mình thề không tái tạo, mới được vãng sanh.
01/04/2011(Xem: 3845)
Mấy ngày trước, có một đồng tu đến kể với tôi rằng ông gặp một câu hỏi khó như sau: “Các vị là người học Phật, vậy chân thật có Phật hay không? Anh đã bao giờ thấy Phật chưa?” Ông không thể trả lời, liền trở về hiệp hội hỏi tôi, để về sau nếu gặp câu hỏi này thì nên trả lời như thế nào? Tôi nói với ông ấy, giả như về sau lại có người hỏi như thế thì ông nên nói với họ: “Thật có Phật, tôi đã thấy qua rất nhiều”. Họ sẽ hỏi ở đâu.
24/02/2011(Xem: 25683)
8 Điểm Gặp Gỡ Kinh Nam và Bắc Tạng - HT Thích Chơn Thiện giảng
24/02/2011(Xem: 7899)
Sự ra đời đạo Tin lành Sự phân liệt lần thứ hai của đạo Kitô vào đầu thế kỷ XVI dẫn đến sự ra đời của đạo Tin lành. Cuộc cải cách này gắn liền với tên tuổi hai đại biểu la Máctin Luthơ (1483 – 1546) và Giăng Canvanh (1509 – 1546). Thế kỷ XVI là thế kỷ mở đầu cho các cuộc cách mạng tư sản châu Âu. Máctin Luthơ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do tư sản, phản kháng lại những quy định khắc nghiệt của của Công giáo. Ông thừa nhận Thánh kinh nhưng phủ nhận truyền thống của nhà thờ, bãi bỏ những nghi lễ phiền toái, cải cách lại ngày phục sinh của chúa, chủ trương cho phép các mục sư lấy vợ... Những tư tưởng cải cách này đã dẫn tới xung đột gay gắt quyết liệt với Toà thánh Vaticăng và dẫn đến việc ra đời một tôn giáo mới : đạo Tin Lành.
22/02/2011(Xem: 4117)
I. GIỚI THIỆU: Kỳ-na giáo (Jainism) là một trong những tôn giáo phi Phệ-đà và có những đặc điểm của nền Văn minh lưu vực Ấn hà. Kỳ-na giáo phát triển như một phong trào chống lại chủ trương tế lễ của Bà-la-môn giáo và tính thẩm quyền của Phệ-đà.
18/02/2011(Xem: 5350)
Bà La Môn là phiên âm của từ Brahman, sau nầy biến cải thành đạo Hindu, một tôn giáo chính của Ấn độ ngày nay, nên ngày nay gọi là Ấn Độ giáo. Đặc biệt Bà La Môn hay Ấn Độ Giáo là một tôn giáo không có giáo chủ.
08/02/2011(Xem: 3763)
Mahamangala Sutta thuộc Sutta Nipata II, Tiểu Bộ kinhI, Thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch là Kinh Phước Đức,Hòa thượng Thích Minh Châu dịch là Kinh Điềm Lành Lớn (Kinh Đại Hạnh Phúc), một bản kinh cầu phước đức rất nhiệm mầu, hiệu ứng an lành đích thực cho những ai tụng đọc, thực hành và ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Vào các ngày đầu xuân, những người con Phật lên chùa dâng hương cầu nguyện, mong ước một năm mới bình an, thịnh vượng. Bên cạnh việc lễ bái, cầu nguyện, cúng dường v.v..., nếu người nào hữu duyên được đọc tụng và hành trì theo kinh Phước Đức thì chắc chắn sẽ gặt hái được phước báo vạn sự cát tường như ý.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]