Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cành Mai Mãn Giác

03/02/201108:28(Xem: 2273)
Cành Mai Mãn Giác
hoa_mai_7CÀNH MAI MÃN GIÁC
Thích Lệ Thọ


Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết, không thể thiếu vào dịp lễ hội Tết cổ truyền của dân tộc. Ngoài nét đặc biệt đó ra, nó còn là một biểu tượng của sự vươn dậy sau giấc ngủ co mình trong những ngày tháng ảm đạm và giá rét của Thu Đông. Khi nhìn thấy sắc vàng tươi thắm của hoa mai người ta còn liên tưởng rằng, nó đồng hành với mùa xuân vào dịp xuân sắp đến, đang đến hay mới đến. Mang lại vui tươi, hạnh phúc, mai mắn, dồi dào, thịnh vượng,sức khoẻ, trẻ trung…

Mùa của sức sống rừng rực dâng lên khiến cho lòng người hân hoan thư thới và lạc quan yêu đời, yêu người hơn. Vì vậy, khi mai nở, xuân về là một nguồn cảm hứng bất tận cho những tâm hồn nhân sĩ, thi sĩ… mặc tình rong chơi hoặc tắm mình trong thiên nhiên:

"Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành Lê trắng điểm một vài bông hoa…"
Từ khoảng trời mênh mông nên thơ đó, mỗi người tự cô đọng cho mình thành những vần thơ bất hủ, những áng văn trác tuyệt đi vào lòng người như bài thi kệ "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác Thiền sư:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Đây là một trong những bài thơ được trong giới nhà thiền hay những văn nhân thường nhắc lại cái hay, cái đẹp của ý tứ thơ vào những độ xuân về.

Thông thường, hàng năm khi đưa tay bốc đi tờ lịch cuối cùng trên vách, là mọi người đều có cùng một ý nghĩ, xuân đã về. Và cũng lấy đó làm cột mốc thời gian cho ba trăm sáu mươi lăm lần vòng quay của trái đất, để đánh dấu cho ngàn lẻ một chuyện như: Hạnh phúc, vui tươi, thành đạt, tủi nhục, chán nản thất vọng … Nhưng tất cả đều được gát lại với sự bằng lòng hoặc miễn cưỡng, để hòa mình cùng sự vươn dậy của trời đất

thiên nhiên đang lai động đến muôn hoa khoe sắc thắm, nghìn lá đâm chồi nẩy lộc mà mọi người gọi đó là biểu tượng Kiết tường, và luôn mong mõi nó sẽ kéo dài cho những ngày sắp tới, để bù lấp cho những điều bất như ý không trông đợi mà nó vẫn đến! Đó là những ngày tận hưởng hương vị của xuân hoặc vui cái Tết cổ truyền của dân tộc. Để rồi sau đó, mọi người lại phải lăng xăng, tất tả, ngược xuôi cho công việc của mình.

Cảm nhận xuân như thế là xuân của thời tiết, vui xuân trong nỗi thụ động của thế thường tình, nên Chế Lan Viên đã gom lại thành những vần:

" Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu
Với tôi tất cả là vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau…"
Quả là, Thi nhân đã cảm nhận được dòng sinh diệt đang vận hành một cách tùy thuộc, vay mượn, không có tính độc lập mà con người là nạn nhân trong guồng quay vô tận đó! Nhưng, chính tác giả cũng không làm gì hơn, để chia xẻ với những ai có cùng tâm tư – bâng khuâng, xao xuyến… Phải chăng, trong cuộc sống này, tất cả chúng ta không ai thoát được quy luật hiển nhiên khắc nghiệt đó, để phải suốt cả một đời đuổi bắt câu vó thời gian! Nên ngay cả Thi sĩ Mãn Giác Thiền Sư cũng để lại rằng:
Xuân đi, trăm hoa rãi
Xuân đến,trăm hoa khai
Xem chuyện đời trước mắt
Tóc trên đầu đã phai
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Tối qua, vườn trước một cành mai.
(Thi sĩ Võ Đình dịch)
Không, mới đọc vào hai câu đầu của Thi kệ, chúng ta đã nghe lạnh cả hư không và tê buốt cả cõi long, vì cách sử dụng ngôn từ khúc chiết, dè xẻn để chuyển tải ý. Mặc dù, từ ngữ hết sức bình dị, đối với những ai ít khi dùng từ Hán-Việt vẫn có thể hiểu một cách trọn vẹn. Nhưng nó lại mang ý và tứ thơ vô cùng thâm viễn, chúng ta thử đọc lại nguyên văn:
" Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai…"
Sự vận hành của thiên nhiên là thế đấy. Khi xuân đã đi thì trăm hoa rơi rụng, nhưng khi mùa xuân sẽ đến, đang đến thì trăm hoa khoe sắc

thắm, dưới nắng vàng dìu dịu và vài cơn gió thoảng đung đưa cành lá. Xuân đến và đi, trong mắt của Thiền sư là thế – thanh thoát, nhẹ nhàng, bình thản và an lạc. Cho nên ngay cả:

"Xem chuyện đời trước mắt
Tóc trên đầu đã phai …"
Cũng chẳng có gì là vướng bận tâm hồn. Bởi, Sinh, Trụ, Dị, và Diệt là như thế, nên cứ bình thản mà sống với hiện hữu. Những việc qua rồi không nên nuối tiếc, những gì chưa đến thì đừng mong cầu. Sỡ dĩ, mỗi cá nhân cảm thấy mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét và muốn luôn bức bách trong cuộc sống là vì không thể kiềm chế lòng ham muốn. Nói như vậy, không phải triệt tiêu ý chí phấn đấu vươn lên của cá nhân trong guồng máy xã hội. Mà ngược lại, nó mang một chiều hướng tích cực, góp phần cho việc ổn định, phát triển và đem lại hòa bình Thế giơi Bởi mỗi cá nhân là thành viên của một quốc gia, hay nói rộng hơn là thành viên của cộng đồng loài người, nên mỗi cá nhân có hoàn thiện thì Thế giớ mới hòa bình, đó là điều kiện ắt có và đủ. Chính vì thế, Mãn Giác Thiền Sư đã khẳng định:
" Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Tối qua, vườn trước một cành mai…"
Để cho chúng ta thấy rằng, qui luật dời đổi tan thương của Vũ trụ chỉ là trò đùa đối với những ai đứng bên ngoài sự vận hành và hiểu rõ từng chuyện đời trước mắt một cách linh hoạt, tự tại như Vạn Hạnh Thiền sư đã từng thấy:
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ xuân tươi tốt Thu qua rụng rời
Sá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
(Thích Mật Thể dịch)
Đối với các ngài là thế, bình thản trước cảnh biến đổi thời tiết và bãi bể hóa nương dâu, nên vui buồn, được mất không làm sao nao núng tinh thần. Trong khi đó, tâm tư của chúng ta lúc nào cũng đầy ấp bóng dáng của khổ đau, sợ hãi, lo âu và tránh né sự thật. Vì thế, khi được thì vui, mất thì buồn. Biệt ly thì đau khổ, gần gũi thì hạnh phúc. Ai khen thì nở mặt, ai chê thì ủ rũ. Vừa ý thì hân hoan, trái ý thì cáu giận. Nên khi gặp cảnh biến thiên của vạn hữu vũ trụ thì ngậm ngùi như Nguyễn Gia Thiều:
" Trải qua một cuộc biển dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…"
Trong khi đó, ngoài bộ mặt đau thương biến đổi của Vô thường còn có sự vĩnh hằng, an lạc của tâm thức và ngoại cảnh. Tuy nhiên, chổ thâm áo này phải trầy trật lắm mới thẩm thấu được sự thật của vấn đề. Như chúng ta đã đọc biết bao nhiêu lần bài thi kệ của Mãn Giác Thiền sư, nhưng vẫn không có được cái thấy tự tại, an lạc và giải thoát như ngài. Phải chăng, đó chính là mấu chốt của vấn đề mà ngài muốn nhắn gởi đến chúng ta, hãy tu tập, thực hành thiền định, sống trong thiền định. Đừng chạy theo hiện tượng thời tiết và chẻ sợi tóc ra làm muôn mảnh để tìm sự thật trong đó!

Tóm lại, cành mai còn sót lại trước sân chùa sau đêm giao thừa với không khí tưng bừng của ngày lễ hội, hoặc còn sót lại cuối mùa xuân. Thậm chí, cho đến nó không có thật trong mùa xuân đó, thì cũng chẳng có gì để chúng ta thắc mắc. Nhưng chỉ có điều là chúng ta phải ghi nhận là cành mai đó nó có trong mắt của Mãn Giác Thiền sư, và không chỉ có khi mùa xuân sắp đến, đang đến mà nó hiện hữu hằng sát na trong ngài. Bởi vì, ngài đã từng lặng ngắm thế sự thăng trầm như vậy nhiều năm và trực nhận triệt để về tính cách bất biến vô sinh của chân tâm, thấy được bản thể vốn tịch nhiên vắng lặng và bất sinh bất diệt từ xưa đến nay và mãi mãi về sau cũng là như vậy. Thì làm gì còn có đến, đi, tàn, phai và héo úa của một cành mai đối với ngài. Phải chăng, đó chỉ là cách nói thâm trầm của người Đông phương khi muốn diễn đạt một vấn đề cho người khác cùng thấy như mình!

Nhân mùa xuân năm 2000, mùa xuân bắt đầu của một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên đầy hứa hẹn của sự thành tựu khoa học, để phục vụ cho con người về phương diện vật chất, người viết mạo muội nói lên một vài cảm nhận qua bài thi kệ của Mãn Giác Thiền sư để được dịp trao đổi cùng các bậc thức giả, nhằm mang lại món ăn tinh thần cho dân tộc nói riêng và cộng đồng loài người nói chung. Đang khi cầm chung trà, miếng mứt để thưởng thức hương xuân lan tỏa, chúng ta, đồng thời, cũng nên lẳng lặng cảm nhận niềm an lạc, trước một mùa xuân mới, mùa xuân của thời tiết. Nhưng nó lại mang sức sống rừng rực dâng lên khiến cho lòng người hân hoan thư thới, lạc quan yêu đời và ngừơi sống vì mọi người, trên tinh thần vô ngã, vị tha và bình đẳng. Đó là bức thông điệp của Mãn Giác Thiền sư đã gởi cho chúng ta từ nhiều thế kỷ qua!

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Delhi, 01.11.99



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2014(Xem: 4180)
3 Sắc Màu Huyền Diệu..Lời: Thích Nữ Nhuận Hải. Phổ Nhạc: Bảo Phúc: Cs: Vân Khánh. Thành tâm trước Như Lai... Người mình chứng cho con... Con cúi xin cúng dường .....Chư Phật Bồ tát Thánh Tăng....Ba sắc bông tươi màu....Bông tím quy y Phật...... Nguyện quy y Pháp chư Tăng...Lòng con luôn sống thuỷ chung....Màu bông trắng tinh khôi.. Sạch trong tâm thân tôi.... Không sống trong dối gian... Ích kỷ ganh ghét tranh đua... Đây sắc bông xanh màu... Mang ước mơ hy vọng..... Mười phương ba cõi thiêng liêng..... Từ bi quên hết ưu phiền... Con thành tâm... cúng dường chư Phật . Cúng dường chư Phật.....Một lòng tu tâm tâm dưỡng tánh....Theo Phật pháp sớm chiều tu tập...... Suốt đời kinh kệ... Nam Mô A Di Đà Phật....Con thành tâm cúng dường chư Phật...Cúng dường chư Phật.....Một lòng tu tâm dưỡng tánh...theo Phật pháp sớm chiều tu tập... Suốt đời kinh kệ.....Nam Mô A Di Đà Phật...Thành tâm trước Như Lai... Người mình chứng cho con... Con cúi xin cúng dường .....Chư Phật Bồ tát Thánh Tăng....Ba sắc
20/10/2014(Xem: 4344)
CHÚ ĐẠI BI - Hợp ca & Nhạc không lời , nhạc sĩ Võ Tá Hân
18/10/2014(Xem: 4729)
Clip nhạc: Kính Lạy Bồ Tát Quan Thế Âm; Lời: Thích Nữ Nhuận Hải. Phổ Nhạc: Chúc Linh: Cs: Cao Thái Sơn.
13/10/2014(Xem: 3425)
Chùa Vạn Hạnh được thành lập vào tháng 12 năm 1977 tại số nhà 4160 Clairemont Drive, San Diego. Do nhu cầu Phật sự, vào tháng 11 năm 1978 Chùa được chuyển đến địa chỉ hiện nay là 8617 Fanita Dr, Santee, CA. Nhờ lòng nhiệt tâm phụng đạo của chư tôn đức Tăng Ni và đồng bào Phật tử, ngôi nhà đạo Pháp được xây cất khang trang, giàu tính nghệ thuật văn hóa Phật giáo Việt Nam đã được làm lễ lạc thành vào ngày 04 tháng 01 năm 1998. Chùa Vạn Hạnh là ngôi chùa đầu tiên của Phật giáo Việt Nam được thành lập tại quận hạt San Diego. Chùa được đặt tên là Vạn Hạnh để tưởng nhớ đến vị Quốc sư Vạn Hạnh thời vua Lý Thái Tổ, vị Thiền sư có công lớn trong việc phụng đạo giúp đời, đã khai mở một kỷ nguyên rạng ngời của Phật giáo Việt Nam. Sinh hoạt của Chùa nhắm vào mục đích chính: "Xiễn dương Phật pháp, tịnh hóa thân tâm, khuyến khích giới trẻ nhận thức tầm quan trọng của đạo Phật, phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam, và đóng góp tiếng nói về hòa bình cho nhân loại."
01/09/2014(Xem: 3445)
words by Teresa Le:Lời: Thích Nữ Nhuận Hải.Music by Greg Schultz: CS: Mark Wood. I give my thanks to Australia . You truly have a heart of gold. I raise my cup to all your sons and daughters of the past. Who built this life we all now. I give my thanks to Australia. You are such a friendly place. You put a sparkle in everybody’s eye. And a smile across their face. In a world full of suffering You’re a shelter in the storm. With compassion shown to everyone You lend a helping hand to the forgotten and forlorn. I give my thanks to Australia. You help us blossom and grow. Like the sun that gives the nourishment of life To the seeds of love we sew. I give my thanks to Australia There’s no place like you on earth It fills my heart with joy to see compassion shown to all. From the moment of our birth. Let’s all thanks Australia.
03/01/2014(Xem: 11978)
Xuân Trong Ta Mỗi độ tháng này người người gọi... … Tết đã về rồi xuân bao la Trong tôi chợt nhớ đến quê nhà Hoa cúc, hoa mai, đầy trước ngõ Trẻ thơ khoe nhau áo mới lạ
17/12/2013(Xem: 10638)
Di Đà Sáu chữ nhớ ơn sâu, Công phu ráng luyện giúp thân mình. Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật. Nam, thật phương Nam Lửa Bính Đinh. Mô, chỉ rõ vật vô hình. A, Tiên Thiên Thận Thủy Bắc Phương Nhâm Quý. Di, giữ bền chặt Tinh Khí Thần. Đà, sắc vàng trùm khắp cả. Phật, thân tịnh ở nơi mình.
17/12/2013(Xem: 11596)
Lục Căn, Lục Trần Nhạc và Lời : Quách Vĩnh-Thiện Cap d'Agde, le 24 juillet 2005 Lục Căn, Lục Trần là Linh Căn của ta, Thể xác ta cấu trúc từ siêu nhiên, Lục Căn, Lục Trần giam trong phiền muộn, Sai khiến Sân, Si, Hỉ, Ái, Dục, Tham.
09/12/2013(Xem: 11153)
Quay Về Nội Tâm Nhạc và LờI : Quách Vĩnh-Thiện Paris, le 3 mars 2004. Tiếng hát : Mỹ Dung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567