Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng dạ, tiếng thưa ... nao nao tình Huế

30/01/201916:24(Xem: 4044)
Tiếng dạ, tiếng thưa ... nao nao tình Huế

tieng da tieng thua

TI
ẾNG DẠ TIẾNG THƯA...
NAO NAO T
ÌNH HU



 

Tiếng dạ, tiếng thưa: một biểu tượng nhân văn của văn hóa Huế.

 

  

Nhận diện văn hóa của một đất nước hay của một vùng đất nào đó trên mặt địa cầu nầy thường có quá nhiều hình tượng và đề tài để nói: Có thể đó là “biểu tượng nhân văn” do con người dựng lên hay nhờ có bàn tay con người gìn giữ và bảo vệ sản phẩm của thiên nhiên lâu dài mới còn tồn tại. Như tháp Eiffel của Pháp, Kim Tự Tháp ở Ai Cập, lá phong ở Canada hay con chuột túi (Kanguru) ở Úc. Hoặc có khi chỉ là một âm vị của ngôn ngữ như tiếng “Ok” của Mỹ, “Amen” của đạo Chúa và “Nam mô” của đạo Phật… Nhưng rốt lại, chỉ còn một nét nào đó nổi bật nhất mà chỉ cần nhìn hay nói ra là sẽ nhận được ngay câu trả lời tên nước, tên vùng.

 

Chắc nhiều người còn nhớ ngày Hội Huế đầu tiên trên vùng đất thủ phủ tiểu bang California, thành phố Sacramento năm 1985, khi nhà thơ Thành Đạt đưa giải thưởng “1000 hột sen Tịnh Tâm” rất quý hiếm vào thời điểm nầy cho ai chọn “một cái gì” bình dân và đơn giản nhất mà ai cũng biết cũng quen dùng tượng trưng cho Huế. Người ta đã đưa ra nhiều hìnhảnh, tiếng nói làm “biểu tượng” cho Huế như chùa Thiên Mụ, Cầu Trường Tiền, Cửa Ngọ Môn, núi Ngự Bình; hoặc tiếng nói: “Mô, Tê, Răng, Rứa”…

 

Nhưng kết quả thật thú vị vì người trúng giải là chị Tịnh Như đã chọn tiếng “Dạ” làm biểu trưng cho Huế. Nhiều người trong cuộc Hội Huế không đồng ý vì tiếng “dạ” là tiếng Việt mà người dân trong cả ba miền Bắc Trung Nam đều dùng chứ không riêng gì ở Huế. Tuy nhiên chị Tịnh Như đã lý giải một cách đầy thuyết phục rằng: “Tiếng ‘Dạ’ là vũ khí văn hóa, nhân văn đặc thù của Huế vì nó được dùng như một phương tiện diễn đạt cảm xúc và ý nghĩ từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu, từ phục tùng đến phản kháng, từ yêu thương đến thách đố, khước từ…”

 

Trường hợp điển hình:

 

                - Hỏi: Con thích bún bò Mệ Chéo không?

                - Đáp: Dạ, con thích lắm! (Tiếng “dạ” đồng ý, khẳng định)

 

                - Hỏi: Anh nhớ em...

                - Đáp: Dạ, em cũng nhớ anh lắm (tiếng “dạ” đồng tình, cảm xúc)

 

                - Hỏi: Con đi với thằng Nam cả canh buổi chừ mới về phải không?

                - Đáp: Dạ (ạ… ă… ắ…)?! ( Tiếng dạ uốn lượn và nhấc lên cuối câu để tỏ bày câu trả lời vừa xác định vừa nghi vấn như nói rằng: “Con có đi với anh ấy mà có can chi không?”)

 

                - Hỏi: Con khoan đi, ở nhà rửa chén bát xong rồi đi”

 

                - Đáp: Dạ (a… à… ạ…)! (Tiếng dạ kéo dài và rớt xuống nặng nế cuối câu để diễn tả sự vâng lời nhưng miễn cưỡng, bực bội)

 

                - Hỏi: Con có nghe tin đồn đó không?

                - Đáp: Dạ (a…á)? (Tiếng dạ như một câu hỏi lại)

 

            Trong nhiều hoàn cảnh và địa phương khác nhau, tiếng “dạ” của Huế còn được sử dụng một cách tinh tế, diễn cảm, bất ngờ nhưng lại có tác dụng như cả một lời diễn đạt và giải thích khéo léo bằng âm thanh qua tiếng nói.

 

            Khi tiếng “thưa” đi kèm sau tiếng “dạ” thành “dạ thưa” là lời khai mở cho câu nói trang trọng, lễ độ; nhưng cũng có khi ngại ngùng và xa cách. Tiếng “dạ thưa” dùng phổ thông trong đại chúng: “Dạ thưa bà con, tui xin có ý kiến…” là một cách bày tỏ sự tôn trọng, lễ độ. Nhưng tiếng “dạ thưa” lọt qua cửa ngõ tình tự: “Dạ thưa, em còn nhỏ; thương rồi mà chưa biết yêu!” thì có cơ trở thành… bùa mê (?!)

 

            Trong bối cảnh văn chương nghệ thuật Việt Nam, những trao đổi khách quan thật khó. Anh nhà văn thì cho rằng: “ Thi sĩ là nhà văn không thành!”. Đối lại, những nhà thơ thì lại cho rằng: “Văn sĩ là nhà thơ không thành!” Nhưng con người và cách nói chỉ là phương tiện; trong khi cứu cánh tinh hoa của nghệ thuật chính là tác phẩm. Những sáng tác văn học nghệ thuật chính là tụ điểm của nghệ thuật, nơi đó, cả nhà thơ, nhà văn và muôn nhà nghệ sĩ gặp nhau. Như trong phương ngữ Huế, tiếng “dạ, thưa” là một tụ điểm của nghệ thuật và đời thường đã khiến cho cả người trong cuộc và kẻ bên ngoài đều muốn nghe, muốn nhận, muốn còn và muốn được. Không ai có thể từ chối lắng nghe với niềm cảm khái trước điệu nói dịu dàng của người con gái Huế hầu như trong mọi tình huống và hoàn cảnh; dẫu đó là sự lễ độ, bày tỏ, câu hỏi, lời mời hay khước từ thì tiếng “Dạ… thưa” đều được nói lên một cách tự nhiên, hòa quyện trong từng câu nói, không điệu đà sắp xếp nhưng tác dụng của sự lễ độ, khiêm cung, gọi mời, xác quyết  : “Dạ thưa dì, mời dì ngồi chơi. Dạ con không biết mạ con đi mô…” hay “Dạ con học lớp 10…”, “ Dạ thưa anh, anh tên chi?”, “Dạ mời anh ghé chơi” và cả “Dạ em không thích” và rất nhiều “dạ…thưa” hòa quyện trong từng câu nói.

 

            Người ngoài xứ, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ, viếng Huế rồi ra đi, ai cũng mang theo trong hành trang nghệ thuật của mình tiếng “Dạ… thưa” của Huế.

 

            Trác tuyệt mà tửng tửng như Bùi Giáng đã đưa tiếng dạ thưa của Huế thành một suy niệm “như như tự tại”:

 

Vào thôn xóm trọ một mùa

 

Qua xuân tới hạ ghé chùa chiền hoa

 

Cô nương mắt ngọc răng ngà

 

Nhìn bồ tát gọi rằng là: dạ thưa

 

- Dạ thưa phố Huế bây gi

 

Vẫn còn núi ngự bên bờ sông Hương

 

Hoặc như Xuân Hoàng đã nâng tiếng dạ thưa của người con gái Huế thành “tứ biểu tượng” của Huế là: Mưa Huế, chùa Huế, sông Hương và tiếng dạ thưa của người con gái:    

 

Ở đây dằng dặc những ngày mưa

 

Bông sứ trầm tư lặng cổng chùa

 

Có một dòng sông trôi chẳng nỡ

 

Có người con gái "dạ, xin thưa..."

 

                                    (Nét Huế - Xuân Hoàng)

 

            Và, Huỳnh Văn Dung đã phóng chiếu tiếng dạ thưa ngọt lịm thành nỗi đam mê sương khói:

 

Giữ chút gì rất Huế mặn mà

 

Dạ thưa, ngọt lịm ai mê say

 

Em đi gót nhẹ xanh hồn cỏ

 

Và hơi thở mềm sương khói bay

 

                                     (Rất Huế - Huỳnh Văn Dung)

 

            Thời gian trôi qua, không gian thay đổi và con người chuyển biến theo hoàn cảnh. Nhưng chỉ riêng tiếng “Dạ… thưa” của Huế là không biến tướng, thay hình đổi dạng. Tiếng Huế có hai kiểu cách bày tỏ: Giọng Dinh và giọng Quê. “Giọng dinh” là cách nói và phát âm của những người Huế ở thành phố hay là những người Huế được tiếp cận nhiều với bài bản và sách vở nên giọng nói nhẹ, tiếng dùng gần với tiêu chuẩn quy ước. Trong khi đó thì “giọng quê” phát âm nặng với nhiều từ ngữ không có trong sách báo, từ điển. Ví dụ. Giọng dinh: “Hai vợ chồng đó gây nhau, ra giữa sân đánh nhau!” Giọng quê: “Hai cấy dôn nớ ngầy dau, ra trửa cươi đập chắc!” Dẫn chứng này có tính cách hơi thậm xưng nhưng minh họa được tính cách đa dạng của phương ngữ Huế. Thế nhưng, trường hợp tiếng “dạ… thưa” thì đặc biệt khắp mọi vùng nông thôn và thành thị Huế đều biểu hiện như nhau.

 

            Những người xa Huế hơn ba chục năm khi trở về thăm Huế, có thể thấy chiếc áo dài của những “o”, những “thím”, những “dì” buôn gánh bán bưng ít đi, nhưng tiếng “dạ…thưa” thì vẫn còn nguyên mượt mà trên từng cửa miệng. Khách phương xa về thăm Huế, tản bộ trên các vùng quê, thường sẽ rất ngạc nhiên và thú vị khi nghe và thấy các cháu học sinh trường làng, cúi đầu cung kính chào: “Dạ thưa ôông!” mà không cần biết quen hay lạ.

 

            Ngôn ngữ là một phương tiện đặc thù của từng nhóm người và xã hội. Tuy tiếng Việt “dạ…thưa” đâu cũng có nhưng với âm điệu giọng Huế nó trở thành trầm lắng và khiêm nhã một cách tự nhiên không mang tính nghi thức hay khách sáo.

 

            Đặc biệt, thế hệ trẻ gia đình gốc Huế sinh ra và lớn lên ở nước ngoài, nếu còn nói được tiếng Việt thì tiếng “dạ…thưa” vẫn còn được kế thừa như một gia sản đầy hương hoa chưa nỡ bị đánh mất hay đi vào quên lãng.

 

 Sacramento , mùa Tết Kỷ Hợi 2019

               Trần Kiêm Đoàn

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/02/2015(Xem: 5168)
Theo phong tục Tây phương, hàng năm vào ngày 14 tháng 2 DL là ngày Tình Yêu (Valentine’s Day). Dựa vào truyền thuyết của La Mã cho rằng Valentine là tên của một vị giám mục Ki-tô giáo tử vì đạo, được phong thánh vào cuối thế kỷ thứ ba, Tây lịch, dưới thời cai trị của Hoàng đế Claudius II (214-270).
14/02/2015(Xem: 7816)
Người Phương Đông thường có thói quen mua hoặc tặng cho bạn bè, người thân những tấm tranh để trang trí vào ngày tết hoặc các dịp khai trương cửa hàng, công ty, tân gia .... Vậy ý nghĩa của các loại tranh như thế nào. Trong bài viết này, Việt Thư Pháp xin phép liệt kê ý nghĩa một số loại tranh để bạn đọc có thể hiểu và chọn mua cho mình những bức tranh ưng ý nhất.
14/02/2015(Xem: 4867)
Bốn phương vạn vật chuyển mình, Đông qua, xuân đến, thay hình đổi mau, Khoác lên chiếc áo muôn màu, Trăm hoa đua nở tận sau chân trời.
11/02/2015(Xem: 4913)
Hoa nở ngày xuân
08/02/2015(Xem: 8399)
Mỗi năm khi mùa xuân đến mọi người rộn rã đón xuân. Không khí xuân dường như phảng phất đâu đây khiến lòng mình cũng lân lân, thơ thới. Nhà nhà bận bịu lo dọn dẹp, trang hoàng. Người người xúng xính áo quần đi lễ Phật đầu năm cầu chúc nhau mọi điều như ý, vạn sự bình an suốt năm.
07/02/2015(Xem: 5674)
Xuân đến xuân lưu nỗi vui mừng Mọi nhà hạnh phúc mãi trào dưng Đời luôn tươi đẹp năng tu tập Hoa xuân rạng rỡ mãi không ngừng
07/02/2015(Xem: 6195)
Mỗi lần xuân đến, những tạp chí Phật giáo đây đó thường nô nức nhắc đến bài kệ thơ của Thiền sư Mãn Giác với những bài tụng ca, bình giảng thật vô cùng trân trọng. Thi thoảng ta cũng bắt gặp đâu đó trong các bài bình luận văn học, cành mai kia cũng lọt vào cặp mắt xanh của các vị giáo sư, tiến sĩ với thẩm quyền chuyên môn về kiến thức và nhãn quan của mình. Ai cũng nói đấy là bài thơ thiền. Và, giá trị mỹ học tuyệt vời của nó, dẫu đã một ngàn năm qua đi, vẫn còn mới mẻ, tinh khôi như giọt sương, như ánh nắng long lanh giữa ngàn cây, nội cỏ...
07/02/2015(Xem: 5387)
Sau những cơn mưa và giá rét của mùa đông đánh dấu sự chấm dứt trạng thái già cỗi của một chu kỳ tuần hoàn của vũ trụ v à khai sinh một lộ trình mới, tươi, trẻ và đầy sức sống của mùa xuân. Ở đó, vạn vật thay đổi toàn diện từ trong ra ngoài. Những cành khô trụi lá được thay thế bằng lộc non xanh tươi. Màu u ám của bầu trời nhường chỗ cho ánh dương quang rực rỡ. Lòng người cũng vui theo với cuộc đời đổi thay sắc diện. Hy vọng và ước nguyện được gửi trao vào cõi thời không như dường mới mở ra một vận đồ kỳ diệu, mà thời điểm thiêng liêng nhất là phút giây gặp gỡ mầu nhiệm của đất và trời, của thời và không, của tâm và cảnh ở thời khắc giao thừa.
06/02/2015(Xem: 5112)
Xuân Di Lặc Ất Mùi đang về đến Khắp muôn nơi nô nức đón xuân sang Viện Quảng Đức chuẩn bị khá rộn ràng Từ tất niên cho đến vào xuân mới
06/02/2015(Xem: 5948)
Thế là đã hơn 16 năm rồi tôi chưa về quê hương ăn Tết. Xuân và hoa vẫn tưng bừng ở đó mà người ra đi đã mất chỗ ở quê hương! Tôi chưa hưởng lại không khí rộn ràng, đầm ấm của những ngày Tết ở quê nhà; mỗi lần nhớ đến lòng tôi xôn xao vừa ngậm ngùi, chạnh nghĩ về quê xưa mà lòng se sắt nhớ!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567