Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kinh lâu đài của ngựa Kiền Trắc

13/01/201417:29(Xem: 10005)
Kinh lâu đài của ngựa Kiền Trắc
con_ngua_kien_trac_1Thiên cung sự - Tiểu bộ kinh
(Vimanavatthu - Khuddaka Nikaya)
Kinh lâu đài của ngựa Kiền Trắc
(Kanthakavimàna)
Trần Phương Lan dịch Việt

Lời Ngỏ: Nhân dịp mừng Xuân Giáp Ngọ 2014, Trang Nhà Quảng Đức xin trân trọng giới thiệu kinh "Lâu đài của ngựa Kiền-trắc". Bản Việt dịch của Cố Giáo Sư Trần Phương Lan. Kanthaka (Kiền Trắc) là con ngựa quý ra đời tại hoàng cung của Vua Suddhodana (Tịnh Phạn) cùng một ngày với Thái tử Siddattha (Sĩ-đạt-ta). Kiền-trắc lớn lên và phục vụ nhà vua cho đến năm 29 tuỗi, nó cùng với người giữ ngựa Channa (Xa-nặc) đưa Thái tử lên đường xuất gia; sau đó ngựa đau buổn phát bệnh , từ trần và tái sanh lên cõi Trời. Câu chuyện này thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Tôn giả Mục-kiền-liên và Thiên tử Kiền-trắc trên Thiên giới.


Bấy giờ Ðức Thế Tôn trú tại Sàvatthi, trong Kỳ Viên. Thời ấy, khi Tôn giả Mahà-moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) du hành lên Thiên giới, một vị Thiên tử tên là Kanthaka vừa bước ra khỏi lâu đài của chàng, đang lên xe đến vườn thượng uyển cùng với đoàn tùy tùng đông đảo trong oai nghi đầy thiên lực.

Khi thấy Tôn giả, vị Thiên tử vội xuống xe và đảnh lễ Tôn giả. Vị trưởng lão liền hỏi chàng :

1-2. Như trăng rằm, chúa tể muôn sao,
Tinh tú vây quanh tựa đứng chầu,
Mặt nguyệt xoay vần hình thỏ ngọc,
Lâu đài Thiên tử sáng dường nào,
Nguy nga tráng lệ trên Thiên giới,
Như mặt trời lên giữa cõi cao.

3-4. Ngọc bích, lưu ly, mã não, vàng,
Ngọc trai, hổng ngọc, bạc trang hoàng,
Nền màu rực rỡ đầy kỳ thú,
Ngọc bích dát lên khắp mặt sàn,
Trùng các nóc cao vời tuyệt mỹ,
Cung điện chàng xây dựng vẻ vang.

5. Chàng có hổ sen tạo mỹ quan,
Cá pu-thu (1) lội nước tung tăng,
Nước hổ lấp lánh và trong vắt,
Bờ được viền quanh với cát vàng.

6. Mặt hổ bao phủ các hoa sen,
Hoa súng lan tràn khắp phía trên,
Làm đắm say lòng, cơn gió thoảng
Tỏa làn hương tuyệt diệu quanh miền.

7-8. Ðôi bờ có đủ các cây rừng
Kết trái đơm hoa thật khéo trổng,
Khi chàng an tọa như Thiên chủ,
Tràng kỷ chân vàng, lót thảm lông.

9. Tiên nữ hầu chàng khéo điểm trang,
Vòng hoa đủ loại, với kim hoàn
Làm chàng thích thú, chàng an hưởng
Ðại lực thần như đấng Ngọc Hoàng.

10. Tù và, kèn, trống, với huyền cầm,
Trống lớn, trống con đánh bập bùng,
Thiên tử hưởng tràn đầy lạc thú
Khi đàn, ca, vũ, nhạc vang lừng.

11. Này đây thiên sắc với thiên thanh,
Thiên vị, thiên hương đẹp ý mình
Thiên xúc mượt mà, êm dịu quá,
Thật là vạn trạng với thiên hình.

12. Trong lâu đài rực rỡ huy hoàng,
Chàng chính là Thiên tử đại quang
Với sắc siêu phàm chàng chiếu sáng
Trông chàng chẳng khác ánh chiêu dương.

13. Kết quả này do việc cúng dường,
Hoặc do trì giới luật thông thường,
Hoặc do đảnh lễ đầy cung kính?
Ðược hỏi, xin cho biết hỡi chàng.

14. Chàng Thiên tử ấy hỉ tâm tràn
Ðược Mục-liên Tôn giả hỏi han,
Chàng giải đáp ngay phần hạnh nghiệp
Và đây là kết quả cho chàng:

15. "Trong chốn kinh thành tuyệt diệu xưa,
Ca-tỳ-la-vệ, tộc Thích-ca,
Con là Kiền-trắc, cùng sinh nhật
Với Thái tử là Sĩ-đạt-ta.

16. Vào nửa đêm, vương tử xuất gia
Ði tìm Giác ngộ, giã từ nhà,
Với bàn tay dịu bao màn lưới (2),
Các móng đổng thau chiếu sáng lòa (3).

17. Ngài bảo con, vừa vô mạn sườn:
"Hãy mang ta, hỡi bạn hiền thương,
Khi nào giác ngộ đường vô thượng,
Ta sẽ giúp người khắp thế gian".

18. Khi được nghe lời nói của Ngài,
Lòng con rộn rã vạn niềm vui,
Với tâm phấn khởi, đầy hoan hỉ,
Tuân lệnh trên, con vội hí dài.

19. Khi biết hoàng nam Tịnh Phạn Vương,
Ðại danh lừng lẫy, cỡi lưng con,
Với tâm phấn khởi, đầy hoan hỉ,
Con rước người vô thượng chí tôn.

20. Vượt qua đất nước của người ta,
Khi mặt trời lên đã quá xa,
Ngài bước đi, lòng không luyến tiếc,
Bỏ con cùng với chú Chan-na.

21. Con liếm chân Ngài với lưỡi con,
Chân Ngài có các móng màu đổng,
Và con kêu khóc nhìn theo mãi
Khi thấy Ngài đi, bậc Ðại hùng.

22. Vì không còn thấy bóng huy hoàng
Của Thái tử, con Tịnh Phạn Vương,
Con ngã quỵ ngay, lâm trọng bệnh,
Và nhanh chóng giã biệt trần gian.

23. Chính nhờ Ngài có đại oai thần,
Ở tại Thiên cung, con trú thân,
Thành phố chư Thiên này có đủ
Biết bao niềm lạc thú vô ngần.

24. Khi nghe Ngài giác ngộ viên thành,
Hỷ lạc trong lòng con khởi sanh,
Do chính căn nguyên thuần thiện ấy
Mà con sẽ tận diệt vô minh.

25. Nếu như Tôn giả có đi ra
Và yết kiến Ngài, bậc Ðạo sư
Tôn giả nói giùm con kính lễ
Dưới chân Ðức Phật Gô-ta-ma.

26. Con sẽ hầu thăm bậc Ðại hùng,
Là người không có kẻ ngang bằng,
Khó tìm thấy được người che chở
Như Ðức Phật che chở cõi trần".

27. Rồi chàng Thiên tử, dáng tri ân,
Biết lợi lạc, nên tiến đến gần ;
Khi đã nghe lời Ngài có mắt,
Chàng thanh tịnh pháp nhãn ly trần (4).

28. Tẩy sạch lòng nghi, đạt tín tâm,
Phát nguyền tu tập, vững tinh cần,
Khấu đầu đảnh lễ chân sư phụ,
Chàng biến mất ngay khỏi cõi trần.


Nhận xét:

Chuyện Thái tử Sĩ-đạt-ta nửa đêm rời bỏ hoàng cung lên đường cùng Xa-nặc cỡi ngựa Kiền-trắc đến tận bờ sông Anoma đã là nguổn cảm hứng của biết bao thi ca, nhạc kịch, hội họa, điêu khắc từ ngàn xưa đến nay. Hơn hai mươi thế kỷ qua, vô số Phật tử khắp thế giới đã xúc động trước cảnh con tuấn mã Kiền-trắc cùng Xa-nặc đưa Thái tử ra đi giữa đêm khuya, và sau đó con ngựa không chịu nỗi sự chia ly với vị chủ nhân muôn vàn kính yêu nên đã lâm bệnh từ trần và tái sanh cõi Trời.

Chuyện Lâu đài của ngựa Kiền -trắc là một trong những chuyện Thiên cung đặc sắc nhất, qua đó chư vị kết tập kinh điển đã dày công sáng tác những vần thơ tuyệt diệu ca tụng cảnh lâu đài của Thiên tử Kiền-trắc với đầy đủ thiên lạc: sắc, thanh, hương, vị, xúc trong muôn ngàn vẻ đẹp mà người đời không sao tưởng tượng nỗi.

Tiếp theo đó là lời tự thuật của Thiên tử Kiền-trắc về nghiệp nhân của chàng ở cõi người và nghiệp quả chàng đang thọ hưởng ở cõi Thiên.

Tuy nhiên, chàng Thiên tử này cũng như một số Thiên tử khác, vẫn thường tỏ ước mong tu tập theo giáo pháp của Ðức Phật. Vì vậy, sau khi giã từ Tôn giả Mục-kiền-liên, chàng đã xuống cõi người yết kiến bậc Ðạo sư để nghe Ngài thuyết pháp và đắc pháp nhãn vô trần ly cấu, tức là tri kiến của bậc Dự lưu thấy rõ các pháp có sanh khởi đều phải chịu hoại diệt, do đó chàng đoạn trừ nghi hoặc, khởi lòng tịnh tín đối với Phật-Pháp-Tăng và phát nguyện tu tập tinh cần trên con đường giải thoát giác ngộ mà Ðức Phật đã đi tìm thuở trước.


* Chú thích :
1. Puthuloma : giống cá quý.
2. Tay có màn lưới phủ là một trong các đại nhân tướng của Ðức Phật.
3. Các móng tay, chân màu đổng cũng là quý tướng.
4. Ðắc pháp nhãn vô trần là thấy sự sanh diệt của các pháp, tức là đắc quả Dự lưu





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/01/2020(Xem: 3867)
Quà, là cái gì đó do người ta tự giác tặng chúng ta, sao giờ lại có vấn đề ĐÒI QUÀ? Rất là trắng trợn, lãng xẹt, và vô duyên gì đâu... Như là đòi nợ! Người ta "hết yêu mới đòi quà", là bà con trong tình thương mến thương cũng đòi quà. Vậy là thương - không thương gì cũng đòi quà. Ai là người đòi quà? - Chính là kẻ ĐÓI QUÀ. Đói mới đòi. Tiếng Việt mình thật tuyệt. Là một du tăng (phượt thủ), việc mang vác quà từ A đến B hay ngược lại, khi chỉ ngao du với một ba lô duy nhất, là chuyện không thể. Trước khi về tới VN, thêm chỉ nửa ký quà trong ba lô thì không nặng, nhưng lão phải dừng chân ngắm cảnh ở bao thành phố, thì nó làm chùn vai làm sao... Tốn kém, mang vác, nói làm chi, đáng buồn là khi trao quà, người nhận thường thờ ơ đáng ngạc nhiên, đắng lòng! Muốn cho họ "không thất vọng" thì... ai mà chịu nỗi! Ở VN giờ có thiếu gì đâu. Cho quà vì sĩ diện cũng khổ, cho quà để thể hiện tình cảm nhớ thương rồi cũng nhục mặt. Phật tử mênh mông, có người chẳng thân gì, cũng phán thẳng
17/01/2020(Xem: 4102)
Em hỏi chị cách sao dâng lời chúc, Làm mọi người phấn khích ... hoà hợp nhanh . “ Chỉ cần em có tâm niệm tốt lành “ Hành xử hằng ngày ... đợi chi đến Tết !!! Tâm trong sáng, chẳng gì lo sơn phết, Ngát hương thơm chính ...nhờ biết tri ân . Nụ cười, đôi tay ...nâng đỡ tinh thần, Hơn vạn lời xã giao cùng chúc tụng!
17/01/2020(Xem: 4981)
Xuân mang ý nghĩa vui vầy sum họp ít nhất theo văn hóa truyền thống Việt Nam. Xuân mang đến sự nghỉ ngơi, tiêu khiển, quân bình thời tiết cho khí hậu ôn hòa, cây lá đơm hoa vươn lên sức sống. Đó là cách nhìn suy nghĩ của đa số con người sống trên hành tinh trái đất này. Tuy nhiên cũng có nhiều người chẳng màng, chẳng để ý mùa xuân, mùa đông… mà chỉ hoạt động theo dòng chảy cuộc đời, theo quan niệm triết sống của riêng mình. Nhưng thế nào, nhất quán ai cũng công nhận mùa xuân là mùa đẹp, vì cảnh vật cây cỏ thêm màu, thêm sắc.
17/01/2020(Xem: 3844)
Xuân Về Kính Chúc Mọi Nhà, tấn tài tấn lộc cửa nhà bình an
16/01/2020(Xem: 3551)
Kính gửi đến Thầy bài thơ bất ngờ xuất hiện trong tâm trí con sau một ngày rất bận rộn vì phải ra nghĩa trang tưởng niệm, và tri ân người thân . Kính dâng Thầy và bạn hữu nhân dịp cuối năm ( chỉ còn một tuần nữa thôi ) . Kính HH Sau tiếng Dạ là cảm thông, là mở rộng ... Là trân trọng được chia sẻ yêu thương . Làm việc hết mình, đầu óc khẩn trương Cùng hoà đồng ... phân biệt chi trình độ !
16/01/2020(Xem: 3833)
Xuân giác ngộ nằm ngay trong chánh niệm Xuân hoà bình còn mãi với thời gian Xuân như ý từng bước đẹp nhẹ nhàng Xuân hạnh phúc sống không gây thù hận.
16/01/2020(Xem: 4665)
Không nói thì ai cũng rõ về thời tiết và khí hậu Miền Nam, đặc biệt Sài gòn. Nhiều người nói vui ở đây chỉ có hai mùa mưa nắng, điều đó chẳng có gì sai nhưng nếu cứ vin vào đó mà nghỉ theo lối suy diễn thực dụng thì e rằng chưa đúng lắm. Trên thực tế, với người sinh ra và lớn lên nơi đây, ai cũng đều nhận rõ sự thay đổi theo từng bước chuyển mùa của thời tiết. Một chút se lạnh , cái se lạnh dù so với người nơi xứ lạnh chẳng thấm vào đâu, cũng đủ làm cho họ nhận ra có sự chuyển mùa. Người có cơ địa yếu ớt thì sẽ cảm thấy một chút sổ mủi, ho hen. Mùa nằng chuyển sang mùa hạ cũng thế, người Miền Nam rất dễ nhận biết qua nhiều điều kiện sinh học, và môi trường chung quanh. Thí dụ tiếng cóc kêu trong hang khô khan, dân gian gọi là “cóc chậc lưỡi” thì đó là báo hiệu của những trận mưa rào. Tiếng chim cu kêu cũng làm lòng người nôn nao rộn rả khi biết mùa xuân đã vừa về bên mái hiên nhà.
16/01/2020(Xem: 6029)
Hằng năm, cứ đúng vào ngày mùng một tháng giêng âm lịch, mọi người đều hân hoan nao nức đón xuân sang, thì trong lúc ấy, khắp các đền chùa, chuông trống vang rền, hương nến rực rỡ, các Phật tử trong bộ lễ phục uy nghiêm, thành kính dâng nén hương tinh khiết, làm lễ rước vía Bồ Tát Di Lặc. Ngài Bồ Tát Di Lặc, theo lời phó dụ của Đức Như Lai, sẽ là vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp kế tiếp Đức Thích Ca hiện sanh ở cõi Ta Bà để hóa độ quần mê. Trong lúc độ sanh, tu hạnh Bồ Tát, Ngài đã thị hiện ra hằng sa thân tướng, tùy căn cơ cao thấp của chúng sanh mà hóa độ hằng sa pháp môn vi diệu Vì thế công hạnh của Ngài thật vô cùng to rộng, rực rỡ.
15/01/2020(Xem: 8369)
Mùa Xuân lại về trên xứ Úc, mừng năm mới Canh Tý 2020, Phật lịch 2564, thay mặt Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan, chúng tôi xin có lời ân cần thăm hỏi và kính chúc mừng năm mới vô lượng an lạc, vô lượng cát tường đến Chư vị Trưởng Lão, Chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Ni Trưởng, Ni Sư, Đại Đức Tăng Ni, quý vị lãnh đạo Tôn giáo, Đoàn thể, Cơ quan, quý Đồng hương, chư Phật tử trong và ngoài Úc Châu.
14/01/2020(Xem: 3982)
Chúng ta vừa đón Tết Mỹ xong thì Tết Việt lại đến. Trong một ý nghĩa nào đó, chúng ta thấy mình có nhiều duyên may để hưởng được hai ngày Tết trọng đại trong năm ở đất nước này. Chúng ta trân quý và đón mừng trọn vẹn cả hai ngày Tết nói trên. Riêng Tết Việt năm Canh Tý, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ xin gởi đến quí liệt vị những tâm nguyện sau đây:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]