Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2- Niềm vui ngày xuân

15/01/201109:27(Xem: 4474)
2- Niềm vui ngày xuân


THẨM MỸ MÙA XUÂN

Thích Thông Huệ

2- NIỀM VUI NGÀY XUÂN

Nói đến xuân, hầu như ai cũng nghĩ đến sự tốt đẹp, an vui, mới mẻ. Bởi vì, mùa xuân là mùa của tiết trời ấm áp, của vạn vật hồi sinh sau những tháng đông tàn tạ lạnh lẽo. Mùa xuân cũng khiến lòng ta dịu lại, trải rộng ra, hòa nhập với đất trời và đồng cảm với mọi người.

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.

Ngày xưa, ông cha ta đón xuân bằng những món ăn tinh thần và vật chất đơn giản như thế. Bây giờ, bánh chưng dưa hành được bày bán quanh năm, câu đối đỏ và cây nêu tràng pháo không còn phổ biến, nên không khí Tết đã khác xưa rất nhiều. Dù vậy, tâm trạng nôn nao mong chờ trong những ngày giáp Tết và niềm vui rộn rã háo hức trong lúc đón xuân, xưa và nay vẫn không thay đổi mấy. Hoàn cảnh gia đình không ai giống ai, nhưng người nào cũng muốn nhà mình sạch sẽ hơn, tươm tất hơn ngày thường. Người lớn trang phục chỉnh tề, trẻ nhỏ ít nhiều cũng có tấm áo mới và tiền lì-xì mừng tuổi. Cách nói năng đối xử với nhau cũng có phần cẩn trọng, lịch sự, biểu hiện sự hoan hỉ, thông cảm giữa người và người.

Ở nước ta, những thú vui, trò giải trí được tổ chức thật đa dạng trong những ngày đầu năm: từ những thú tao nhã như chơi hoa, vẽ tranh, thư pháp... đến những trò giải trí có tính cách dân gian hoặc các lễ hội truyền thống mùa xuân. Tất cả đều được hưởng ứng nồng nhiệt, được tham dự đông đảo. Điều này nói lên tính cách của dân tộc Việt, dù hoàn cảnh khó khăn đến mấy, cũng không mất sự lạc quan yêu đời. Thật khó tìm thấy ở nơi nào khác mà người dân lại hưởng tết quá lâu, quá kỹ và quá nhiều màu sắc như Việt Nam ta.

Cũng chính vì vậy, phần đông những người xa xứ đều mang trong lòng nỗi nhớ quê hương, đều tìm cơ hội về thăm nơi chôn nhao cắt rốn để hưởng một mùa xuân sum họp. Trước bàn thờ tổ tiên, họ sẽ thành tâm dâng lên ông bà cha mẹ những thành quả trong học tập, trong công danh mà mình đã đạt được. Đồng thời, họ cũng bùi ngùi nhận ra rằng, mình chưa báo đáp được đầy đủ công ơn trời biển của các Người; tự hứa với lòng sẽ tìm cách giúp đỡ gia đình, người thân và những ai không may mắn, để bù đắp lại những tháng ngày hờ hững đã qua.

Đối với người Phật tử, mùa xuân là lúc thích hợp để hành hương, chiêm bái các tự viện. Một số người còn nặng về phước lộc đến chùa cầu Phật Trời ban cho sức khỏe, hạnh phúc và mọi điều may mắn trong cuộc sống. Họ nghĩ đến Phật như một đấng thần linh, một chốn náu nương trừu tượng nhưng cũng là nguồn an ủi, là sự động viên tinh thần quý giá.

Những ngày đầu năm cũng là dịp để chúng ta đến thăm bà con, bạn bè, cùng tặng nhau những lời chúc tốt đẹp, cùng uống với nhau ly rượu, một tách trà. Nếu có điều kiện, chúng ta tổ chức tham quan những di tích lịch sử, những thắng cảnh của quê hương để thấy rằng đất nước ta thật đẹp đẽ, dân tộc ta thật kiên cường bất khuất.

Tình yêu quê hương sẽ có dịp được tăng trưởng, tình cảm giữa người và người có dịp được thắt chặt. Ta sẽ thấy lòng mình chan hòa cùng đất trời và con người, ta sẽ biết cách sống đầy tình nghĩa với đồng bào đồng loại. Ta cũng biết tôn trọng và bảo vệ môi trường sống chung qua ta, bởi vì vạn vật đối với ta đều vô cùng thân thiết.

Tuy nhiên, những loại hình giải trí đa dạng cũng chỉ “mua vui một vài trống canh”, niềm hạnh phúc sum họp rồi cũng nhường cho nỗi sầu ly biệt. Mấy ngày Tết rộn ràng bao nhiêu, khi trở lại với những lo toan đời thường, chúng ta càng thấy quạnh quẽ trống vắng. Nhất là đối với những người luống tuổi neo đơn, khi con cháu lần lượt ra đi hết, thì niềm sum họp ngắn ngủi ngày nào càng làm nặng nề hơn nỗi buồn hiu quạnh hôm nay.

Cho đến niềm hạnh phúc của người Phật tử cảm nhận được khi đến chùa, cũng chỉ hiện hữu khi họ còn chiêm ngưỡng dung mạo và nụ cười tự tại của Đức Phật, còn đắm mình trong khung cảnh bình an của ngôi Già-lam. Trở về nhà, họ lại bị quay cuồng trong vòng xoáy của cuộc tồn sinh, lại bị đắm nhiễm trong trần cảnh và bị trói buộc trong xiềng xích danh lợi. Vì thế, trong niềm vui nào cũng ẩn hiện bóng dáng của khổ đau, vì vui ấy do vay mượn từ bên ngoài và vì nó không bền lâu, không chắc thật. Cũng như mùa xuân đất trời, chỉ hiện diện trong ba tháng rồi theo luật tuần hoàn, nhường chỗ cho mùa hè nóng bức. Nhà Phật gọi đó là cái vui sinh diệt, vui trong vô thường.

Vậy thì, có niềm vui nào tồn tại vĩnh viễn không? Nếu có, bằng cách nào chúng ta tìm được niềm vui ấy? Đây là vấn nạn của con người, và chính Đức Phật đã đưa ra lời giải đáp tường tận, cách đây hơn 25 thế kỷ.

Chúng ta thường đổ thừa hoàn cảnh và những tác nhân bên ngoài gây đau khổ cho mình. Rất ít người chịu nhìn lại bản thân, xem phiền não do đâu mà có. Kinh Lăng Nghiêm kể đoạn ngài A-Nan hỏi Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, thế nào là cội gốc phiền não sinh tử, thế nào là cội gốc Bồ-đề Niết-bàn?”. Câu trả lời đến từ mười phương chư Phật: “Cội gốc phiền não sinh tử là sáu căn của ông, cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của ông chứ không đâu khác!”.

Mắt thấy sắc liền phân biệt đẹp xấu, đẹp thì muốn chiếm làm của riêng, xấu thì sanh tâm ghét bỏ, khi lòng tham không thỏa mãn lại phát khởi sân hận...Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên theo pháp trần... mỗi mỗi đều dính mắc nên tạo nghiệp. Nghiệp thiện dẫn ta đến các cõi lành, nghiệp ác dẫn vào đường dữ, rốt cuộc cứ quẩn quanh trong ba cõi sáu đường! Như thế, nếu các căn tiếp xúc với trần cảnh mà dính mắc, thì ngay hiện đời đã chịu phiền não, khi mất thân lại mang nỗi khổ lớn nhất, ấy là cái khổ luân hồi sinh tử. Ngược lại, nếu vẫn tiếp duyên xúc cảnh mà không khởi tâm phân biệt, thì nghiệp do đâu phát sinh? Vòng luân hồi đương nhiên bị chặt đứt.

Hình tượng Đức Bồ tát Di-Lặc mập tròn, bụng to, khuôn mặt đầy đặn phúc hậu, nụ cười thật thoải mái với những đứa trẻ vây quanh, biểu hiện một niềm hạnh phúc vô bờ. Vì sao Ngài có được sự hỷ lạc tuyệt vời đến thế? Những đứa trẻ tượng trưng sáu trần luôn bám theo Ngài quậy phá, như trần cảnh lúc nào cũng hiện hữu xung quanh chúng ta. Nhưng khác với chúng ta, Ngài tuy vẫn tiếp duyên mà không chấp trước, không nhiễm ô. Vì Đại xả nên lục tặc biến thành lục thông, nên Ngài luôn luôn có một niềm vui trọn vẹn, miên viễn (Đại hỉ). Niềm vui nầy là tiền đề của hạnh phúc tuyệt đối - hạnh phúc giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Như vậy, hạnh phúc thật sự của con người không phải từ bên ngoài đến, mà từ sự buông xả ở ngay nội tâm mình. Trong đời sống thường nhật, chúng ta xả bỏ những tranh chấp hơn thua, những điều thị phi không như ý, xem đó chỉ là những cơn mưa bóng mây thoáng qua rồi mất; ngay lúc ấy, ta thấy mình được an ổn đôi phần. Tiến lên một bước, ta quán chiếu trần cảnh chỉ là duyên hợp giả có, tâm không khởi phân biệt khi các căn tiếp xúc các trần. Biết rằng mọi ý niệm đều hư dối, từng bước ta buông xả hết mọi tình chấp đối với ta - người và các pháp. Buông xả thì mới hay Niết bàn tại hiện tiền chứ không ở đâu xa lạ, và mùa Xuân bất diệt cũng ở ngay tại đây và bây giờ!

Nhận ra mùa Xuân bất diệt ấy, Sơ Tổ Trúc Lâm Điều Ngự Giác Hoàng đã làm bài kệ:

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.

Hòa thượng Trúc Lâm dịch:

Thuở bé chưa từng rõ sắc không,
Xuân về hoa nở rộn trong lòng.
Chúa Xuân nay bị ta khám phá,
Chiếu trải giường thiền ngắm cành hồng.

Tuổi trẻ chưa thấu rõ lý sắc không, cứ mãi mê đuổi theo ngoại cảnh, nên khi thấy hoa nở báo xuân về, lòng bỗng nhiên rộn ràng cảm xúc. Ngày nay, Ngài đã khám phá bộ mặt thật của Chúa Xuân, tức nhận ra bản lai diện mục của chính mình và quán triệt thực tướng của các pháp. Các pháp do duyên tụ hợp, hết duyên lại trở về không, tánh của các pháp vốn là Không, nhờ duyên hợp nên giả có. Bằng cái thấy siêu việt nhị nguyên, Thiền sư luôn sống trong mùa xuân vĩnh cửu; Ta-bà cũng là Tịnh-độ, phiền não và Bồ-đề không hai không khác. Người vô sự ngồi trên giường thiền, ngắm từng cánh hồng rơi rụng mà lòng vẫn an nhiên. Bởi vì, hoa nở hoa tàn vẫn là xuân, mỗi phút giây đều là xuân.

Trong hội Linh Sơn, khi Đức Phật đưa cành sen xanh lên, nhìn khắp lượt đại chúng, Ngài bắt gặp ánh mắt Ca-Diếp. Thời điểm bốn mắt nhìn nhau là một khoảnh khắc thiên thu. Tâm thầy và tâm trò tương ưng, không lời diễn tả nên chỉ biết mỉm cười! Nụ cười Ca-Diếp là hình ảnh tuyệt đẹp thể hiện sự khế hợp Thầy-trò trong một thực tại vô ngôn, khi Chúa Xuân bị khám phá. Ý nghĩa sâu xa của sự tích Niêm hoa vi tiếu không phải là ở chỗ niêm hoa (đưa cành hoa lên) hay vi tiếu (mỉm cười), mà chính là sự giao cảm bất tư nghì giữa tâm Thầy và tâm trò, tại thời điểm tứ mục tương cố (bốn mắt gặp nhau). Do vậy, Đức Phật mới trao truyền Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm cho Ca-Diếp. Và cũng từ đó, Phật pháp lưu truyền như nước từ nguồn tỏa khắp các nhánh sông, mang đến sức sống cho muôn loài muôn vật. Cho đến ngày nay, sức sống ấy vẫn luôn tuôn trào, để những người hữu duyên có thể nhìn thấy nhánh mai vàng rực rỡ trong một đêm cuối xuân!

Nhân mùa xuân đất trời lại đến, chúng ta hãy cùng chân thành chúc nhau sớm khám phá Chúa Xuân miên viễn của chính mình, sớm có niềm vui thưởng thức vẻ đẹp của cành mai không bao giờ tàn tạ. Niềm vui ấy mới là tuyệt đối, là vĩnh cửu, mới là mục đích cao tột trong đời tu của tất cả chúng ta.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/01/2012(Xem: 6911)
Trong bốn mùa, mùa xuân biểu hiện rõ nhất sự đổi mới: cây thay lá mới,thiên nhiên trẻ lại, trời đất trong sáng và dồi dào sinh khí… Thậm chí ngay cảngười ít cảm xúc nhất cũng phải theo thiên hạ mà làm sạch nhà cửa, ăn mặc mớisạch, đi đâu cũng phải làm ra vui vẻ. Trong ý nghĩ thì chúc nhau những điều tốtđẹp tích cực, loại bỏ những ý nghĩ thô xấu tiêu cực. Quét rửa vào những ngàycuối năm, rước lộc về, thắp hương cầu khấn, chẳng phải là muốn đem về nhà cáimới, cái hên để thay thế cho những cái cũ, cái xui xấu của năm vừa qua sao?... Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
08/01/2012(Xem: 5907)
Người,cũng là muôn loài trong cái thế giới ta bà, vẫn mang tứ khổ của cuộc đời, vẫnphải chịu bao cảnh trầm luân, vẫn phải nỗ lực tu tập để thoát khỏi luân hồi.Tôi cũng thế. Có lúc tôi chịu đớn đau, chịu bao phiền não. Tôi nào thoát đượcchốn trần gian đầy khổ ải...
05/12/2011(Xem: 8700)
Kính thành đốt nén tâm hương Chúc cho muôn loại ánh dương chan hòa Đại đồng thể tánh bao la Gia đình vô kỷ, thăng hoa xuất trần Tân xuân tươi sáng trong ngần Niên niên đoạn hết những phần trắc nan An vui cùng khắp thời gian
19/06/2011(Xem: 3683)
Thì cành Mai vẫn nở , Mỗi lần xuân đến, những tạp chí Phật giáo đây đó thường nô nức nhắc đến bài kệ thơ của Thiền sư Mãn Giác với những bài tụng ca, bình giảng thật vô cùng trân trọng. Thi thoảng ta cũng bắt gặp đâu đó trong các bài bình luận văn học, cành mai kia cũng lọt vào cặp mắt xanh của các vị giáo sư, tiến sĩ với thẩm quyền chuyên môn về kiến thức và nhãn quan của mình. Ai cũng nói đấy là bài thơ thiền. Và, giá trị mỹ học tuyệt vời của nó, dẫu đã một ngàn năm qua đi, vẫn còn mới mẻ, tinh khôi như giọt sương, như ánh nắng long lanh giữa ngàn cây, nội cỏ...
19/05/2011(Xem: 4612)
Từ lâu lắm, chừng như trong tâm khảm và ước vọng của con người, mùa xuân bao giờ cũng hiện ra với dáng vẻ tươi vui, rực rỡ và sinh động, bởi vì nó là giai kỳ khởi đầu cho một vận hành dịch biến mới của vạn vật.
11/04/2011(Xem: 3773)
Khỉ là loài linh trưởng thông minh và có nhiều đặc tính lạ. Về trọng lượng, khỉ thường nặng 3-4 kg, nếu so với một con đười ươi hoặc hắc tinh tinh nặng 3- 4 tạ thì khỉ quá nhỏ bé.
01/04/2011(Xem: 6798)
Hình tượng ba con khỉ: con thì dùng tay che hai mắt, con thì dùng tay bịt hai tai và con thì dùng tay bịt miệng lại…đã nói lên sự khôn ngoan của người biết giữ lễ.Đây là một phương châm xử thế: Không nhìn những việc gì xấu, không nghe những lời nói xấu,không nói điều xấu xa đê tiện. “See no evil, hear no evil, Speak no evil” Người ta nghi rằng nguồn gốc của triết lý tam không nói trên có lẽ đã được một nhà sư Phật gíáo thuộc tông phái Thiên thai(?) (Tiantai Zong),Trung Quốcđề cậpđến trong tác phẩm của ôngta, “ Không thấy, không nghe và không nói” vào koảng thế kỷ thứ VIII. Sau đó thì tư tưởng nầyđược du nhập vào Nhật Bản với sự ra đời của hình tượngđiêu khắcba con khỉ.Ngày nay hình tượng bộ khỉtam khôngxưa nhứt là tác phẩm của nhàđiêu khắcHidari Jingoro (1594-1634) dược thấy thờ tại đền ToshoguởNikko, Nhật Bản. Theo ngôn ngữ Nhật Bản: -Nizaru:tôi không nhìn điều xấu -Kikazaru: tôi không nghe điều xấu -Iwazaru: tôi không nói điều xấu
27/03/2011(Xem: 7060)
Đón Xuân - Lâm Ánh Ngọc - Tuấn Anh Đạo diễn & quay phim : Điệp Văn Thực hiện : Sen Việt Media
08/03/2011(Xem: 3685)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
08/03/2011(Xem: 3299)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567